Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao?

Sự ra đời của em bé được sinh ra đầu tiên nhờ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm khiến cha mẹ cô gặp khó khăn trong việc chạy trốn sự hỗn loạn của truyền thông.

Louise Brown không ngại nếu bạn gọi cô ấy là một em bé ống nghiệm, "nhưng tôi thích IVF hơn – vì không có ống nghiệm nào liên quan", cô nói với một nụ cười, chỉ vào cái lọ thủy tinh lớn nơi cô bắt đầu cuộc sống của mình.

Cái lọ đó hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Khoa học ở London, vì đúng vào ngày 25/7/1978, Louise Brown đã trở thành người đầu tiên được sinh ra sau khi được thụ tinh ngoài cơ thể người, thông qua thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Phôi của cô đã được lấy ra từ cái “lọ thuỷ tinh” và chuyển vào tử cung của mẹ cô, Lesley.

Hành trình tìm con của người mẹ bị tắc ống dẫn trứng và công cuộc chạy trốn giới truyền thông

Louise là một đứa trẻ của sự kiên trì và hy vọng không ngừng. Cha cô là Gilbert John Brown, một tài xế xe tải, và mẹ cô là Lesley - rất khao khát có con. Cặp đôi sống ở Whitchurch, Anh, đã cố gắng thụ thai trong 9 năm mà không thành công. Lesley bị tắc ống dẫn trứng khiến việc thụ thai tự nhiên không thể thực hiện được. Cô đã trải qua các ca phẫu thuật không thành công trước đây để thông ống dẫn trứng và sẵn sàng “chịu đựng bất cứ điều gì” để có con.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 1

Sự ra đời đặc biệt của Louise được báo chí thế giới quan tâm.

Vào ngày 10 tháng 11 năm 1978, cặp đôi này đã đồng ý tiến hành phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) dưới sự chỉ đạo của nhà sinh lý học Sir Robert Geoffrey Edwards và bác sĩ sản khoa Patrick Christopher Steptoe. Bà mẹ Lesley được cảnh báo rằng chỉ có “một trong triệu” cơ hội có con, nhưng cô vẫn giữ vững hy vọng.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 2

Đội ngũ bác sĩ tiến hành phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.

Sau đó, một trứng trưởng thành được lấy từ một trong những buồng trứng của người vợ là Lesley được kết hợp với tinh trùng của người chồng là John trong phòng thí nghiệm. Khi trứng đã được thụ tinh và phân chia thành hai, bốn và sau đó là tám tế bào. Lesley đã mang thai sau khi phôi tám tế bào được cấy vào tử cung của cô. Là người phụ nữ đầu tiên thụ thai qua phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và có thai khi được vài tuần, Lesley đã thu hút rất nhiều sự chú ý từ truyền thông.

Nhà sinh lý học Edwards và bác sĩ sản khoa Steptoe gặp khó khăn trong việc bảo vệ người mẹ Lesley khỏi sự hỗn loạn của truyền thông. Lesley bị báo chí săn đuổi nhiều đến mức bác sĩ Steptoe phải giấu cô trong xe của ông và đưa cô đến nhà mẹ của ông ở Lincoln. Sau đó, khi Lesley được nhập viện tại bệnh viện Oldham để sinh con, các phóng viên đã vào phòng cô giả làm nhân viên dọn phòng để tiếp cận.

Vào lúc 11 giờ 47 phút ngày 25/7/1878, Lesley đã hạ sinh thành công bé gái đặt tên là Louise "Joy" Brown, nặng 2.6kg, bằng phương pháp sinh mổ. Từ “Joy'” trong tên cô là một gợi ý từ hai bác sĩ với ý nghĩa mang lại niềm vui cho mọi người. Sự ra đời của cô đánh dấu một cột mốc quan trọng trong khoa học y học hiện đại. Báo chí truyền thông lúc bấy giờ đã mô tả đây là “sự ra đời được chờ đợi nhất trong có lẽ 2.000 năm qua”. Đứa trẻ mang lại tia hy vọng cho hàng triệu cặp vợ chồng không có con trên khắp thế giới. Cho đến thời điểm đó, đối với những phụ nữ bị tổn thương ống dẫn trứng, việc thụ thai là không thể.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 3

Lesley và John Brown cùng cô con gái mới sinh Louis.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 4

Từ trái sang phải: Bác sĩ sản khoa Patrick Steptoe, Jean Purdy và nhà sinh lý học Robert Edwards chụp hình cùng Louise Brown, em bé IVF đầu tiên trên thế giới.

Năm 2010, Nhà sinh lý học Sir Robert Geoffrey Edwards đã giành giải Nobel vào năm 2010 cho sự phát triển của biện pháp IVF, được coi là một trong những đột phá y học đáng chú ý nhất của thế kỷ 20. Khoảng tám triệu em bé đã được sinh ra trong bốn thập kỷ qua thông qua các công nghệ hỗ trợ sinh sản, bao gồm IVF.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 5

Louise chụp hình cùng gia đình năm lên 10 tuổi.

Lớn lên và sống một cuộc đời như bao người khác

Cô bé được sinh ra đầu tiên trong ống nghiệm Louise nói rằng, mặc dù mẹ cô là một người kín đáo nhưng “bà ấy sẽ làm bất cứ điều gì” cho bác sĩ sản khoa Steptoe và nhà sinh lý học Edwards vì bà cảm thấy rất biết ơn. “Không lâu trước khi mẹ qua đời, bà nói rằng nếu không có IVF, bà sẽ không còn ai trên thế giới này", Louise nói về mẹ mình: “Ngay cả đến những ngày cuối cùng của bà, bà vẫn tự hào về mình và những gì mình đã làm”.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 6

Mẹ của Louise qua đời vào năm 64 tuổi.

Sau khi mang thai đứa con đầu lòng, Louise đã viết thư cho nhà sinh lý học Edwards để thông báo cho ông trước bất kỳ ai khác. Bây giờ cô sống một “cuộc sống rất bình thường” ở tây nam nước Anh, làm việc cho một công ty vận tải ở Bristol và sống với chồng cùng hai con trai.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 7

Louise năm nay đã bước vào độ tuổi 44.

Louise còn có một em gái thứ hai là Natalie, vài năm sau đó, cũng được sinh ra nhờ phương pháp IVF. Vào tháng 5 năm 1999, Natalie trở thành em bé IVF đầu tiên sinh con. Việc thụ thai của Natalie là tự nhiên, làm dịu bớt một số lo ngại rằng các em bé IVF nữ sẽ không thể mang thai tự nhiên. Vào tháng 12 năm 2006, Louise Brown đã sinh bé trai đầu tiên có tên là Cameron, vài năm sau, cậu con trai thứ hai là Aiden cũng chào đời, cả 2 đều được thụ thai bằng phương pháp tự nhiên.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 8

Louise bên 2 cậu con trai lúc nhỏ.

Em bé ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chưa sinh ra đã lọt tầm ngắm báo chí, cuộc sống hiện tại ra sao? - 9

Louise cùng chồng và con trai khi đã trưởng thành.

Brown nói rằng, mặc dù cô được “bảo vệ” khỏi những phản ứng tiêu cực với IVF khi lớn lên, dù bố mẹ cô nhận được hàng ngàn bức thư trong đó có nhiều ý kiến trái chiều thì bây giờ, phản hồi chủ yếu là tích cực.

“Vài tháng trước, tôi đang ở siêu thị với chồng và các con trai và tôi nghe thấy tiếng bước chân chạy sau lưng,” cô nói. “Đó là một người phụ nữ và cô ấy có một đứa trẻ 4 tuổi, cùng tuổi với con trai tôi - và một đứa bé nhỏ xíu trong xe đẩy. Cô ấy nói rằng cô ấy luôn muốn cảm ơn mẹ tôi và tôi vì nếu không có chúng tôi, cô ấy sẽ không bao giờ có hai đứa trẻ đó”. Điều đó làm tôi rơi nước mắt.

Hiện nay, có khoảng 6 triệu em bé trên toàn thế giới đã được sinh ra thông qua IVF. Số lượng em bé sinh ra thông qua IVF vẫn tăng lên mỗi năm ở Mỹ, với hơn 70.000 em bé ra đời vào năm 2016.

Ngày nay, IVF được coi là một phương pháp điều trị y tế chính thống cho vô sinh. Hàng trăm nghìn trẻ em trên khắp thế giới đã được thụ thai thông qua phương pháp này.

Một vài thông tin giúp bạn hiểu hơn về IVF

Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là một kỹ thuật có sẵn để giúp những người có vấn đề về khả năng sinh sản có con. Kỹ thuật này liên quan đến việc thu thập trứng của người phụ nữ và thụ tinh cho họ bằng tinh trùng trong phòng thí nghiệm.

Nếu thụ tinh thành công, phôi được phép phát triển trong khoảng từ hai đến sáu ngày, trước khi được chuyển trở lại tử cung của người phụ nữ để hy vọng tiếp tục sinh thành công.

Thông thường một số phôi sẽ được tạo ra trong phòng thí nghiệm và những phôi không được cấy sẽ bị đông lạnh. Những phôi đông lạnh này sau đó có thể được sử dụng sau này, nếu lần thử đầu tiên không thành công hoặc nếu bạn muốn thử cho một em bé khác.

Thật không may, tỷ lệ thành công vẫn khá thấp và giảm theo độ tuổi của người phụ nữ. Theo thống kê, tỷ lệ phần trăm dưới đây cho thấy cơ hội sinh trung bình từ IVF tùy thuộc vào độ tuổi của phụ nữ:

Dưới 35 tuổi: Tỷ lệ thành công là 29%

Từ 35-37 tuổi: Tỷ lệ thành công là 23%

Từ 38-39 tuổi: Tỷ lệ thành công là 15%

Từ 40-42 tuổi: Tỷ lệ thành công là 9%

Từ 43-44 tuổi: Tỷ lệ thành công là 3%

Trên 44 tuổi: Tỷ lệ thành công là 2%

Thy Dung

Tin liên quan

Tin mới nhất

Nhà thơ thương binh viết về thương binh liệt sĩ Trường hợp Hoàng Cát

Nhà thơ thương binh viết về thương binh liệt sĩ Trường hợp Hoàng Cát

Sau nhiều năm lâm bệnh ung thư, khi thì qua, khi thì nặng trở lại, nhà thơ thương binh Hoàng Cát đã về cõi vĩnh hằng vào ngày 1 tháng 7 năm 2024, đúng vào đầu tháng có kỉ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ, hưởng thọ 83 tuổi. Nhà thơ sinh năm 1942 tại quê nhà Nghệ An, nhưng đã cư trú liên tục tại Hà Nội từ năm 1960.

Phát huy giá trị đa văn hóa trong nếp sống  văn hóa, văn minh đô thị

Phát huy giá trị đa văn hóa trong nếp sống văn hóa, văn minh đô thị

Hội thảo khoa học diễn ra ngày 25/07/2024 tại TP.HCM do Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á (Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) phối hợp với Hội hữu nghị Việt Nam – Asean TP.HCM tổ chức mang chủ đề "Giải pháp phát huy giá trị đa văn hóa và tiềm năng của các gia đình có yếu tố nước ngoài tại TP.HCM góp phần xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh đô thị” đã đặt ra nhi

Toàn văn Lời điếu tại Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Toàn văn Lời điếu tại Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Ngày 26/7, Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được cử hành trọng thể theo nghi thức Quốc tang tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội), đồng thời Lễ truy điệu cũng được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh) và quê nhà Tổng Bí thư tại xã Đông Hội, huyện Đông Anh (Hà Nội). Ủy vi

Khởi nguyên của vũ trụ: Lịch sử 14 tỉ năm tiến hóa

Khởi nguyên của vũ trụ: Lịch sử 14 tỉ năm tiến hóa

Từ ngàn xưa, con người vẫn thường tự đặt câu hỏi về nguồn gốc của mình trong vũ trụ: "Ta đến từ đâu?" hay "Ta là ai trong vũ trụ này?". Bởi chủ đề khởi nguyên vẫn luôn mê hoặc con người bởi nhiều lý do, cả lý trí và cảm xúc. Chúng ta khó có thể hiểu được bản chất của bất kỳ điều gì nếu không biết nó đến từ đâu. Trong tất cả những câu chuyện được nghe, câu chuyện về