Trở về nguồn cội dân gian: Từ sắc đỏ nhiễu điều đến hương quê trên non

Vào những dịp lễ trọng, mọi người thường nghĩ nhiều nhất đến cội nguồn, quê hương, nội tộc, gia đình, cộng đồng, Tổ quốc… Như vậy cũng là nặng lòng yêu thương, trân trọng cái đẹp muôn thuở về cả tinh thần và vật chất. Khi tìm hiểu về văn hóa, văn nghệ dân gian, chúng ta nghe vang vọng những lời ca dao, tục ngữ vô cùng tươi tắn và thâm thúy. Mấy câu tục ngữ thuộc dạng thơ lục bát dưới đây thuộc những thí dụ tiêu biểu.

1- Nhiễu điều phủ lấy giá gương…

Trước tiên, phải nói đến câu: Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Theo truyền thống tín ngưỡng của dân tộc ta, ảnh thờ ông bà, tổ tiên phải được đặt trong khung kính có giá đỡ, dựng trên bàn thờ cẩn thận, chu đáo và thường thường được trùm phủ lên bằng một tấm vải. Vải ấy là loại vải nhiễu màu đỏ (nhiễu điều). Người thân yêu dù đã khuất bóng, vẫn còn để lại hồn thiêng, cho nên di ảnh cũng luôn luôn phải kính cẩn giữ gìn, chăm sóc.

Trở về nguồn cội dân gian: Từ sắc đỏ nhiễu điều đến hương quê trên non - 1

Ảnh minh họa

Đây là lời nhắn nhủ, khuyên dạy quý báu mà tổ tiên ta nhiều đời qua truyền lại cho con cháu. Câu đầu tiên, tác giả dân gian nói đến tình yêu thương đối với gia đình, tổ tiên, câu sau nói đến tình yêu thương đối với cộng đồng xã hội, nhân dân, Tổ quốc.

“Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn” cũng là lời nói có hình ảnh của dân gian. Đất đai nước ta từ nghìn xưa có rất nhiều sông suối, ao hồ. Ở làng quê, ngoài ao nhà, còn có ao làng, giếng làng. Ao nhà, ao làng là không gian địa lý ở phạm vi rất hẹp, là biểu trưng của xóm làng quê kiểng, nhà tranh vách đất. “Tắm ao” (chứ không phải đơn thuần là tắm táp ở ao) là một kiểu, một nếp sinh hoạt văn hóa nông thôn. Dù đi đến đâu, xa quê đến bao lâu, cũng không thể quên được ao nhà, ao làng những khi ta tắm mát, có bè rau muống, chum tương ở mé sân đang ngóng đợi. Dẫu trong đục thế nào thì về tâm lý, ao nhà mình, sông suối quê mình vẫn là mát mẻ, trong lành nhất.

Tương tự, còn có câu: “Trâu ta ăn cỏ đồng ta”... Những câu ca dao như vậy xuất hiện từ khi làng quê Việt Nam còn bị bó hẹp bởi lũy tre xanh. Ngày nay, mọi người đã tỏa đi khắp bốn phương trời để làm ăn, giao lưu, thì quê hương không chỉ là nơi cắt rốn chôn rau ở buổi đầu đời, hoặc quê bố, quê mẹ. Đất lành chim đậu. Tất cả mọi miền trên Tổ quốc đều là quê hương.

Trở về nguồn cội dân gian: Từ sắc đỏ nhiễu điều đến hương quê trên non - 2

Ảnh minh họa

Ai đi xa cũng luôn luôn nhớ về xóm làng mình, Tổ quốc mình. Dân gian đã nói: “Chim ham trái chín ăn xa/ Nhớ nguồn lại hướng cây đa tìm về”. Trong thiên nhiên có hiện tượng một số loài cá trở về nguồn cội, chẳng hạn chúng theo sông suối bơi ngược lên rừng. Hoặc những con vật nuôi tìm lại nhà mình sau khi đã trải qua một đoạn đường rời xa quá dài. Câu tục ngữ đang bàn đến này cũng nói về những loài chim trở về nguồn cội. Tuy nhiên, sự nhớ lại, sự trở về của động vật khác hẳn con người.

Người ta đi xa một cách tạm thời hay dài lâu, đều luôn luôn nhớ về quê hương, Tổ quốc. Cây đa, giếng nước, mái đình, bến sông, lũy tre xanh... là những hình ảnh, những biểu trưng của làng quê Việt Nam cổ truyền. Chúng ta không chỉ luôn luôn nhớ, hướng về, hình dung về quê hương, cội nguồn mà quan trọng hơn là trở về thăm, gặp lại người thân, gặp lại cây đa, ôn lại kỷ niệm xưa, thắp hương cúng gia tiên.

Câu vừa dẫn nói đến chim, câu dưới đây nói đến ngựa: “Đường dài ngựa chạy biệt tăm/ Người thương có nghĩa trăm năm cũng về”. Cách nói quen thuộc của tục ngữ, ca dao là vế đầu nói đến thiên nhiên, loài vật, đồ vật, v.v., vế sau nói đến con người, nhằm tạo nên sự so sánh, liên hệ về ý nghĩa. Dùng cái xa xôi để nói điều gần gũi hoặc dùng cái gần gũi để nói điều xa xôi. "Ngựa quen đường cũ", đã có câu tục ngữ như thế. Ngựa cũng như một số loài gia súc khác khi đi xa đều nhớ đường trở về nhà.

Trở về nguồn cội dân gian: Từ sắc đỏ nhiễu điều đến hương quê trên non - 3

Ảnh minh họa

Câu tục ngữ nêu trên tuy cùng lúc nói đến ngựa và người nhưng không đặt ngựa ngang với người. Ý nghĩa của câu tục ngữ được thể hiện ở vế thứ hai. Người có suy nghĩ đúng đắn, có tình có nghĩa thì luôn luôn nhớ đến tổ tiên, quê hương, gia đình, người thân. Chuyện "trăm năm" ở đây không chỉ bó hẹp ở chuyện hạnh phúc vợ chồng. Thời gian trăm năm nên hiểu là thời gian của đời người. Đi đâu thì đi, dù đằng đẵng xa cách, mọi người vẫn hướng về, quay về chốn cũ, ở đó có những người thân yêu, căn nhà có bàn thờ tổ tiên, cảnh làng quê có cây đa, bến nước, sân đình.

Chúng ta không thể không liên tưởng đến những câu thơ dân gian quen thuộc khác: “Con người có tổ có tông/ Như cây có cội, như sông có nguồn”. Thờ phụng tổ tiên, hướng về quê nhà và thương yêu đồng loại. Từ thuở ấu thơ, chúng ta đã đi vào giấc mơ, khi mẹ ru: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

2. Ở sao như quế trên non …

Từ nghìn xưa, người Việt Nam, kể cả nam hoặc nữ, thuộc nhiều lứa tuổi, đều yêu quý, trân trọng hoa, biết thưởng ngoạn sắc đẹp và hương thơm của nhiều loài hoa. (Tục ngữ còn có câu "Người ta là hoa đất". Hoặc ca dao: "Ra đường thấy cánh hoa rơi / Hai tay nâng lấy, cũ người mới ta"). Hoa sen, hoa hồng, hoa tầm xuân, hoa mai, hoa lan, hoa cúc… làm bạn với người trong đời sống hằng ngày. Hoa cũng tưng bừng khoe sắc, tỏa hương thơm ngát trong văn chương. Hoa là biểu tượng của cái đẹp, tượng trưng cho văn hóa vật thể và phi vật thể. Trong đầm gì đẹp bằng sen / Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng / Nhị vàng bông trắng lá xanh / Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Trở về nguồn cội dân gian: Từ sắc đỏ nhiễu điều đến hương quê trên non - 4

Ảnh minh họa

Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng / Thơm cây đến rễ, người trồng cũng thơm. Câu ca dao này ca ngợi hoa, đề cao người trồng hoa. Hương thơm của hoa do thơm lạ thơm lùng¸ đã thấm sâu vào tâm hồn người. Cũng có thể chính người trồng hoa, do trân trọng, chăm sóc hoa bằng cả tấm lòng yêu thương mà họ trở nên tươi đẹp và tỏa ra hương thơm.

Trong nếp sống sinh hoạt ăn ở, giao tiếp hằng ngày và cả cuộc đời, mọi người nên thể hiện một cách tốt nhất, sâu sắc nhất vẻ đẹp tinh thẩn, đạo đức, kĩ năng sống… Cái đẹp còn lưu lại đến những đời sau. Câu tục ngữ Ở sao như quế trên non / Trăm năm khô rụi, vỏ còn dính cây nói chủ yếu đến cái đẹp lan tỏa, cái đẹp lưu lại. Có nhiều loại cây cho hoa thơm, quả ngọt, nhưng khi tàn lụi thì chỉ còn là khúc gỗ trơ trơ. Quế là một trong những loài cây cho vỏ thơm, ngay cả sau khi cây đã chết. Vỏ quế là một nguyên liệu rất cần thiết để làm thuốc chữa bệnh, làm gia vị cho món ăn. Vỏ còn dính cây có nghĩa là vỏ không rụng rời vô ích, vỏ cây cũng chính là thân của cây vậy.

Mở đầu bằng cụm từ Ở sao có tính nghi vấn, đề nghị, tác giả dân gian đưa ra một lời khuyên: Mọi người nên duy trì nếp sống tích cực như cây quế trên núi rừng để mãi mãi từ đời này sang đời khác lưu lại vẻ đẹp, hương thơm.

Thơ dân gian còn có những câu khác đề cao hương thơm, vị ngọt của thiên nhiên, từng được các nhà văn nhắc đến nhiều lần: Lên non đón gió lấy trầm / Xui ong làm mật, giục tằm nhả tơ. Đấy là cái đẹp vừa do cảm nhận hình ảnh, hương sắc thiên nhiên, vừa do lao động, sáng tạo thiên nhiên mà có.

3. Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời …

“Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một đời thờ mẹ kính cha/ Giữ tròn đạo hiếu mới là nghĩa con”. Lời bà, lời mẹ ru cháu, ru con từ nghìn xưa đã thấm vào tâm hồn, thịt da biết bao thế hệ trẻ thơ.

Trở về nguồn cội dân gian: Từ sắc đỏ nhiễu điều đến hương quê trên non - 5

Ảnh minh họa

Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Trung Hoa. Thái Sơn là một ngọn núi không có ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc vay mượn tên núi, tên sông, người sử dụng câu tục ngữ không quan tâm nhiều. Người ta chỉ hiểu Thái Sơn là một hình ảnh tượng trưng mà thôi.

Căn cứ vào thực tế đời sống gia đình, từ khi người mẹ mang thai, sau đó là sinh nở rồi nuôi con lớn khôn, tác giả dân gian đã khẳng định công sức sinh dưỡng và tình nghĩa của người cha, người mẹ đối với con cái là vô cùng sâu nặng, to lớn, là tình yêu thương ruột rà, mãi mãi không thể nào vơi cạn. Do cấu trúc nhịp điệu cân xứng của câu thơ lục bát, cũng là của thành ngữ, tục ngữ, từ công cha, và từ nghĩa mẹ được tách đôi ra. Tuy nhiên, ai cũng hiểu rằng công sức và tình nghĩa luôn luôn đi cùng nhau, thuộc cả về người cha lẫn người mẹ. Không ai hiểu đơn giản là riêng cha thì có công, riêng mẹ thì có nghĩa.

Khi con cái có gia đình riêng, làm bố, làm mẹ thì Nuôi con mới biết sự tình/ Thầm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa. Cha mẹ đã khuất thì người con nào cũng nhớ, cũng thương. Nhớ tiếc, xót thương không chỉ vào dịp cúng giỗ hoặc lễ tết, mà ngày ngày tháng tháng vẫn thấy hình bóng mẹ cha trong chính con cái mình. Con cái là phiên bản của bố mẹ, chúng luôn luôn gợi nhớ đến bóng hình, tâm hồn ông bà. Sinh nở, chăm nuôi, dạy dỗ con, nếm trải sự tình vất vả bao nhiêu thì thương cha mẹ khi đã nuôi mình bấy nhiêu. Đói lòng ăn trái ổi non/ Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa.

Thương nhớ và biết ơn, thương nhớ và ân hận. Tục ngữ còn có câu: Lên cao mới biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ. Hoặc: Một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi nổi một mẹ. Một câu khác: "Nước mắt chảy xuôi", tức là tình thương và sự cực nhọc truyền từ đời trước sang đời sau. Đời cha mẹ chăm sóc đời con, rồi đời con lại chăm sóc đời cháu cho ông bà. Thầm thương cha mẹ, cảm ơn cha mẹ nhưng đã quá muộn mằn, còn có ích gì nữa không khi hai bậc sinh thành đáng thương kính vô vàn ấy đã yên nghỉ nghìn thu.Câu tục ngữ nhắc nhở những người con nên sống có hiếu, hãy thương yêu, chăm sóc cha mẹ thật tốt để sau này đỡ hối tiếc, ân hận. Khi cha mẹ đã khuất bóng thì hãy chú ý sinh dưỡng, dạy dỗ các con thật chu đáo, đó là cách đền đáp thiết thực nhất công ơn, tình nghĩa sinh thành, dưỡng dục đối với cha mẹ.

Mỹ tục thắp đèn trời để đáp ơn cha mẹ cho thấy nhân dân ta rất xem trọng tấm lòng và cử chỉ biết ơn của thế hệ trẻ tuổi. “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời/ Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Nói đến đèn trời, có thể nhiều người sẽ liên tưởng đến mặt trăng và các ngôi sao? Nhưng nghĩ kĩ lại, câu này nói mỗi đêm, tức là từng đêm, từng đêm đêm này qua đêm khác, rồi cử chỉ mỗi thắp nữa, tức phải liên tục châm lửa, khêu đèn (có dị bản là: đêm đêm thắp ngọn đèn trời). Mà đèn thường dùng thì có nhiều loại: đèn hoa kỳ, đèn bão, đèn lò, đèn pin, đèn cù (đèn kéo quân), đèn măng - sông, đèn lồng,  đèn điện, đèn xì, đèn bán dẫn v.v. Vậy, đèn trời là đèn gì?

Người viết đang lúng túng, loay hoay thì mới đây, mừng quá, đọc báo Tinh hoa Việt (10/3/2018), được nhà thơ, nhà nghiên cứu Lê Minh Quốc cho biết ông đã tìm được tài liệu xưa quí hiếm nói về đèn trời. Là thế này: đèn trời liên quan đến tục lệ thiêng lập bàn thờ Thiên, đặt ở ngoài trời để hành lễ, từ xửa xưa đã có ở nước ta. Mĩ tục thờ Trời ở bàn Ông Thiên này được tiến hành hằng ngày, gia chủ thắp nhang vái trời, đất, bốn phương cầu cho gia đình được an lành và đặc biệt là cầu thọ cho cha mẹ.

Lễ quan trọng nhất trong năm là lễ vía Trời vào ngày mồng 8 rạng ngày mồng 9 tháng Giêng theo lệ "Mồng 9 vía Trời, 19 vía Đất" có nguồn gốc từ Trung Hoa. Lễ gọi là vía Trời với nghi thức hành lễ gọi là "Thắp đèn trời"; công việc là đốt một ngọn đèn sáp lớn tỏa sáng rực và đốt lò trầm hương. Cả hai cháy suốt đêm. Người ta còn trang hoàng nhà cửa tươm tất, dùng đồ sứ sang trọng và mời dàn nhạc tấu mở tiệc đãi cha mẹ và bạn bè. (Hết đoạn tham khảo ý kiến của tác giả Lê Minh Quốc).

Câu ca dao là lời người con tôn vinh cha mẹ. Có thể liên hệ rằng cha mẹ là bậc cao cả, anh minh cao sáng như trời biển, như đèn trời soi rọi. Đèn trời không chỉ là đèn để vái trời đất mà còn là đèn được hình dung ở trên bầu trời cao lồng lộng. Ngọn đèn ấy tượng trưng cho hai bậc sinh thành sẽ lung linh tỏa sáng và mãi mãi song hành với cuộc đời của các người con.

Khi đã ra ở riêng, nếu là con thứ hoặc con gái, thì người con nào cũng muốn nhà mình ở gần nhà bố mẹ: “Thứ nhất gần mẹ, gần cha/ Thứ nhì gần giếng, thứ ba gần đình”.  Nhất, nhì, ba chỉ là cách sắp xếp thứ tự quen thuộc của thơ ca dân gian. Tất cả những hình ảnh ấy đều nói lên ước muốn một cuộc sống thanh bình, đẹp tươi, hạnh phúc.

4. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

Tục ngữ - ca dao Việt Nam có nhiều câu rất hay đề cao vẻ đẹp thể chất và tinh thần của riêng người mẹ. Câu “Mẹ già như chuối chín cây/ Như xôi nếp mật như đường mía lau” hẳn là được nhiều người ghi nhớ.

Trở về nguồn cội dân gian: Từ sắc đỏ nhiễu điều đến hương quê trên non - 6

Ảnh minh họa

Chuối ba hương, xôi nếp mật và đường mía lau là ba trong số những sản vật rất quí của nước ta, một nước đi lên, đổi mới từ nông nghiệp. Chuối ba hương là chuối được ủ trong chum sành, trải qua ba đợt hương châm lửa (ủ còn gọi là dấm, hương đây là loại hương để thờ cúng). Có người cho rằng, đó là chuối bà hương (cũng có tên là ba hương) - loại chuối ngon có nhiều ở miền Trung. Xôi nếp mật (có trộn mật hoặc đường chăng, nhưng nên hiểu là nếp một), là thứ xôi rất ngon, bởi vì lúa nếp một, thóc nếp một được xếp hạng Nhất. Cây mía có hình dạng như cây lau thì vừa ngọt vừa mềm.

Người mẹ đắc thọ được ví như ba loại đặc sản kia, có nghĩa là bà đã được kính trọng, tôn vinh, được nhận về niềm yêu thương nồng nàn của mọi người, trước hết là con cháu trong nhà, trong nội tộc. Tuổi già như trái vườn đang chín, tuổi già thơm ngọt như xôi nếp ruộng nhà, như đường mía lau đồng bãi. Trái cây, xôi nếp, mía đường cùng nhau phô ra sắc đẹp tuổi già của người mẹ. Đâu phải cứ tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên hoặc tuổi thanh xuân, phơi phới ước mơ, tràn đầy sinh lực mới thường xuyên được so sánh với những gì thơm ngọt, đẹp tươi.

Dân gian còn có câu: “Mẹ già như chuối ba hương/ Sao anh không liệu, để em đây liệu cùng”. Ấy là lời của người con gái nói với người con trai, có ý giục giã, rằng: mẹ anh đã già, nhà anh nên chuẩn bị lễ ăn hỏi sớm đi, em sẽ thuận tình chung sức với anh.

Và đây, mẹ hiện về trong trí nhớ của con: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”. Hai nhân vật hiện ra cùng một lúc: người con (nhân vật hiện diện) và người mẹ (nhân vật đã khuất). Người trưởng thành hay nhớ về quá khứ. Trở về với ngày xưa, sướng vui thì ít mà buồn thương, tiếc nuối, ân hận thì nhiều. Con cái chỉ thật sự thấy thương yêu bố mẹ một cách da diết nhất khi bố mẹ không còn nữa trên đời. Mẹ đã từng chăm con thơ từ việc nhỏ đến việc lớn, rất dày công, tỉ mỉ. Mẹ nhai cơm cho nát (cơm búng) mớm cho con, riêng cá đồng kho, có xương dăm lẫn vào, thì phải khéo lựa, nhằn, đẩy chúng ra. Cảnh tượng xúc động ấy, nay con nghe kể lại, rồi tưởng tượng, bởi vì khi ấy con còn quá bé. Đứa bé không thể biết rõ được hết sự việc khi nó mới hai, ba hoặc bốn, năm tuổi. Ước gì mẹ sống lại để con được xúc thìa cơm canh, lựa miếng ngon dâng mẹ.

Ơn mẹ cha sinh thành dưỡng dục là lớn lao, mênh mông như núi cao, trời thẳm, biển rộng, sông dài. Hẳn có không ít những người con, dẫu có lòng hiếu thảo đến mức nào chăng nữa, nhưng vì lý do nào đó mà vẫn chưa có một ngày chăm sóc mẹ cha.

Hẳn là ai ai cũng mãi mãi nhớ về lời ru thiết tha, đằm thắm:

Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ

Đêm canh chầy thức đủ năm canh

5. Lụa tuy vóc trắng vụng cầm cũng đen...

Cái đẹp không chỉ thể hiện ở sự vật, hình ảnh đẹp mà còn ở cách sống đẹp, đó là suy nghĩ đẹp, tâm hồn đẹp, ứng xử đẹp… Ứng xử tại bữa ăn, có câu: Xới cơm thì xới lòng ta/ So đũa thì phải so ra lòng người. Chúng ta hãy hình dung một gia đình truyền thống Việt ở nông thôn xum họp tại một bữa ăn hằng ngày. Các thành viên trong gia đình ngồi chung quanh mâm (mâm đồng, mâm nhôm hoặc chõng tre).

Nồi cơm đặt bên cạnh một người phụ nữ. Đó là cô gái nhiều tuổi nhất, là con đẻ hoặc con dâu. Ngồi ở vị trí ấy gọi là ngồi đầu nồi. Cô gái ăn, lúc lúc lại ngừng để xới cơm cho mọi người. Lúc đầu vào bữa, cô gái cầm bó đũa dỗ dỗ phía đầu to xuống mặt mâm rồi so từng đôi để đặt trên mép mâm phía người đang ngồi. Đoạn, cô xới cơm vào bát (bằng đôi đũa cả, tức là đũa bằng tre dài và rộng bản), trao đến tay từng người, hoặc đặt xuống mép mâm, kèm theo lời mời nhỏ nhẹ.

Trở về nguồn cội dân gian: Từ sắc đỏ nhiễu điều đến hương quê trên non - 7

Ảnh minh họa

Như vậy, xới cơm thì  xới lòng ta có nghĩa người xới cơm cần có động tác gọn gàng trong phạm vi không gian hẹp sát lòng mình, không vội vàng, cũng không chậm chạp, tránh vung vẩy đũa làm cơm rơi vãi. Đơm cơm vào bát cần gọn, đẹp, không đầy quá, cũng không vơi quá. Đối với người già và trẻ nhỏ thì tùy lượng cơm sao cho phù hợp. Tránh trao cơm cháy cho bất cứ ai, trừ khi trẻ nhỏ thích. Thêm nữa, nét mặt nên tươi tỉnh, thái độ cần hào hứng, tỏ ra có trách nhiệm đối với công việc được giao. So đũa thì phải so ra lòng người có nghĩa là sẻ san tình cảm, đặt trước đôi đũa về phía người chuẩn bị dùng bữa như đặt vào lòng niềm vui bằng cử chỉ và thái độ thân thiện.

Câu tục ngữ xưa nhắc nhở nết ăn, nết ở, đến nay vẫn còn mới mẻ và rất cần thiết. "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng" cũng là lời khuyên bổ ích. Tuy rằng hiện nay không còn phổ biến cảnh nhà đông người, có mặt đầy đủ, thường xuyên các thành viên cùng ăn chung bữa cơm hằng ngày, nhưng nét đẹp của lối sống gia đình vẫn còn là một giá trị quí báu được lưu lại mãi mãi.

Một nhân cách, một tâm hồn đẹp được thể hiện ở nhiều ứng xử văn hóa. Hãy nghe câu tục ngữ: Thế gian họ nói không lầm/ Lụa tuy vóc trắng, vọng cầm cũng đen. Thông điệp được câu tục ngữ nêu ra ở câu thứ hai. Câu đầu chỉ là lời khẳng định rằng điều sẽ nói dưới đây là chân lý.

Vóc vừa có nghĩa là vải vóc, vừa có nghĩa là thân hình đẹp và khỏe (sức vóc, vóc dáng). Nghĩa đen của câu này nói về một đồ vật quí màu trắng, nếu tay không sạch, lại cầm nắm hoặc sử dụng thô kệch, vụng về ắt làm bẩn nó đi. Muốn biết nghĩa bóng, hãy chú ý đến từng chữ.

Lụa: Một loại vải quý, dáng vẻ mềm mại, óng ả, tinh tế, biểu tượng của cái đẹp, phần nhiều được nhắc đến cùng với hình ảnh người phụ nữ. Trắng, đen: Hai sắc màu ngược nhau, cái này nói lên sự cao sang, tinh khiết và cái kia là đen đủi, thấp kém.  Hai chữ tuy, cũng: Có nghĩa là lẽ ra, đành vậy. Rằng, đừng tưởng cao sang là cao sang mãi mãi, nếu thuộc về người hèn mọn hoặc sa vào hoàn cảnh xấu thì cái cao sang rất có thể bị đổi màu, biến chất. Nói vụng cầm có nghĩa thiếu tinh tế, không có tâm hồn, không biết rung cảm trước cái đẹp và không biết trân trọng, sử dụng cái đẹp, không biết thế nào là giá trị.

Cái tinh tế trong lời nói dân gian này chính là ở từ vụng cầm. Chỉ cầm không khéo léo thôi, đã làm hỏng vật cầm rồi. Cầm còn có nghĩa là sở hữu đồ vật hoặc con người. Phải chăng, cưới được người đẹp mà làm hỏng người đẹp thì thật là uổng phí, sai lầm.

Ngâm nga câu tục ngữ trên, người ta có thể nhớ đến câu: Trời kia có thấu chăng trời / Lụa đào mà vá áo tơi sao đành. Cái đẹp, cái cao sang và xấu xí, cái bình thường, tầm thường, hèn mọn tránh để ràng buộc với nhau. Bởi như thế là cọc cạch, thiếu tinh tế, mặc dù áo tơi có giá trị riêng của người nghèo, của một thời.

Phạm Đình Ân

Tin liên quan

Tin mới nhất