Văn học dân gian Việt Nam thời hiện đại đầy sức sống và hấp dẫn

Bàn về văn học sử, nhiều người nghĩ Văn học dân gian đã được đóng khung gọn ghẽ trong các tuyển tập truyện cổ, câu đố, trong các cuốn từ điển thành ngữ tục ngữ, ca dao. Văn học dân gian vẫn không ngừng phát triển trong suốt hơn hai mươi thế kỷ qua cùng văn học thành văn và ở mỗi chặng đường đều để lại những dấu ấn đặc thù. Diện mạo nền văn học của mỗi dân tộc, đứng về đại thể có thể chia làm hai khu vực lớn: Văn học dân gian và văn học thành văn. Hai dòng chảy này vừa phát triển song song vừa tương hỗ cho nhau, mỗi dòng chảy mang trong mình đặc điểm, phong cách riêng biệt. Đó là cảm hứng để PGS.TS Trần Thị Trâm cho ra đời chuyên luận với tên gọi: Văn học dân gian Việt Nam sau 1986 (450 trang, NXB Văn học 2022).

Cuốn sách chia làm hai phần. Phần Một khảo cứu, gồm hai chương lớn: Đặc điểm phát triển của Văn học dân gian Việt Nam sau 1986 và Sự hóa thân của Văn học dân gian trong các hình thức văn hóa dân tộc. Phần Hai sưu tầm, tuyển chọn một số tác phẩm Văn học dân gian tiêu biểu trong giai đoạn từ 1986 trở lại đây, bao gồm ba thể loại chính: thành ngữ tục ngữ, ca dao và truyện cười; trong đó có phân định rõ về các tác phẩm Văn học dân gian ra đời từ 2020 trở lại đây, gắn với đại dịch Covid-19.

Ở phần khảo cứu, TS Trần Thị Trâm đã chỉ ra: Phân loại Văn học dân gian Việt Nam thành ba giai đoạn lớn: Văn học dân gian cổ truyền (từ 1945 trở về trước), Văn học dân gian 30 năm kháng chiến (1945 - 1975) và Văn học dân gian tính từ Đổi Mới 1986 trở đi.

Văn học dân gian Việt Nam thời hiện đại đầy sức sống và hấp dẫn - 1

Chân dung PGS. TS Trần Thị Trâm. Ảnh: NVCC.

Theo tác giả, Văn học dân gian tự xây dựng một trường đặc điểm thẩm mỹ riêng, có một quan niệm nghệ thuật riêng về cái đẹp. Theo đó, trong cái nhìn dân gian, cái đẹp thường mang một vẻ đẹp giản dị và hài hòa trọn vẹn cả hình thức lẫn nội dung: Người xinh cái bóng cũng xinh. Trong trường hợp cần chọn lấy một thì nội dung bao giờ cũng quan trọng hơn hình thức: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Cái nết đánh chết cái đẹp.

Nền Văn học dân gian hiện đại, nhất là tính từ 1986 trở đi, có những đặc điểm riêng, khác với các giai đoạn trước đó. Cụ thể, có sự khác biệt về tác giả và công chúng tiếp nhận. Trình độ của người viết lẫn người thưởng thức ngày càng tăng cao, nhờ đó Văn học dân gian phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, gia tăng được chất triết luận, trí tuệ và hài hước.

Văn học dân gian giai đoạn sau 1986 còn có sự hỗ trợ mạnh mẽ của internet và mạng xã hội, giúp cho các tác phẩm dễ dàng đến với công chúng, lan tỏa mạnh mẽ và trau chuốt, chỉnh sửa kịp thời để chất lượng được gia tăng.

Sự khác biệt tiếp theo của Văn học dân gian giai đoạn sau 1986 là sự thu hẹp nội dung phản ánh. Nếu như văn học dân gian cổ truyền là cuốn bách khoa toàn thư của dân tộc thì văn học dân gian thời hiện đại chỉ tập trung hướng tới những vấn đề nhạy cảm, phanh phui những điều khuất tất trong đời sống xã hội, được thể hiện qua góc nhìn hài hước: Mỗi tuần một cuộc giao ban/ Lại bàn những chuyện đã bàn hôm qua, Thanh tra thanh mẹ thanh gì/ Cứ có phong bì là nó thanh kiu. Phong cách nhại/ giải thiêng được sử dụng nhiều trong Văn học dân gian đương đại. Nếu như trước đây, trong dân gian có câu Trẻ xông pha già gương mẫu thì bây giờ câu tục ngữ này có biến thể là Trẻ không chơi, già đổ đốn.

Tương tự như thế, có hàng loạt các biến thể như: Một con ngựa đau cả tàu bỏ…chạy, Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng ăn nhổ toẹt lầu bầu kêu điên, Đất lành chim đậu/ Đất nhậu chim thành mồi. Nhiều tác phẩm kinh điển cũng được/bị nhại, đôi khi chỉ mang tính chất đùa vui, ví dụ nhại Truyện Kiều: Trăm năm trong cõi người ta/ Ai ai cũng phải thở ra hít vào. Văn học dân gian hiện đại, xuất hiện nhiều nhà thơ sáng tác theo phong cách dân gian như: Bút Tre Đặng Văn Đăng, Nguyễn Bảo Sinh, Văn Thùy… Nhiều câu thơ của họ được nhân dân nồng nhiệt đón nhận và coi đó là ca dao: Anh đi đồng ruộng lắng nghe/ Lúa mừng phân bắc khoai che mảnh vườn; Ghế thì ít, đít thì nhiều/ Cho nên đấu đá là điều tất nhiên, Đái thì đứng ở ngoài đường/ Hôn nhau lại đứng sau tường để che…

Cuối 2019, khi đại dịch Covid xuất hiện trên thế giới và lây lan về Việt Nam, ảnh hưởng đời sống xã hội toàn cầu, Văn học dân gian lập tức xuất hiện kịp thời để phản ánh, sáng tác, vừa mang tính chất tuyên truyền phổ biến giáo dục, góp phần giúp người dân chống lại bệnh dịch, vừa tạo ra tiếng cười lạc quan để động viên con người vượt lên hoàn cảnh khó khăn: Bao người đang sống yên lành/ Bỗng đùng một cái hóa thành ép không (F0), Ngày xưa sợ nhất sấm to/ Bây giờ sợ nhất người ho cạnh mình, Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép không (F0); Cái nhìn hài hước, thông minh của dân gian đã làm nhẹ nhàng cả những chuyện nghiêm trọng nhất, khiến ai ai cũng bật cười sảng khoái.

Nhân dân đã chiết tự chữ Covid như sau trong mùa đại dịch: C = cắt giảm chi tiêu. O = ổn định cuộc sống, V = vệ sinh sạch sẽ, I = ít tụ tập, D = đầu tư sức khỏe, trí tuệ. Văn học dân gian thời Covid vừa mang tính thời sự cao, vừa có giá trị cung cấp kiến thức, vừa góp phần nâng đỡ tinh thần, ổn định xã hội. Không chỉ tục ngữ ca dao, thời Covid sinh nhiều truyện cười, ngắn gọn mà dí dỏm, dễ thương. “Thấy vợ vừa rửa bát vừa khóc nức nở, chồng chạy tới hỏi: - Sao mà em khóc ghê thế? - Em bị dính Covid rồi. - Sao em biết? - Em vừa úp bát mì ăn mà không cảm thấy mùi vị gì. Chồng nhìn quanh và nói: - Gói gia vị vẫn còn đây mà . - Ối! Em quên. Thảo nào…”.

Văn học dân gian Việt Nam thời hiện đại đầy sức sống và hấp dẫn - 2

Các cuốn sách của PGS Trần Thị Trâm

Trong phần Hai của công trình, riêng phần thu thập các tác phẩm Văn học dân gian tiêu biểu thời Covid, tác giả Trần Thị Trâm đã gửi tới độc giả 60 câu thành ngữ tục ngữ, 150 câu ca dao và 40 truyện cười. Giai đoạn Văn học dân gian từ 1986 đến 2019, tác giả gửi tới bạn đọc 500 câu thành ngữ tục ngữ, 500 câu ca dao và 500 truyện cười tiêu biểu.

Tại cuốn sách này, PGS.TS Trần Thị Trâm cũng khẳng định: Văn học dân gian còn tạo ra một giá trị to lớn là hóa thân vào nhiều tác phẩm báo chí cũng như nhiều loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, hội họa… Dễ dàng kể đến các biểu hiện tiêu biểu như cách đặt tên tác phẩm, cách đưa thành ngữ tục ngữ ca dao vào tác phẩm, cách khai thác và chọn lựa đề tài, cách dùng Văn học dân gian làm câu hỏi trong các game show truyền hình…

Văn học dân gian Việt Nam sau 1986, (450 trang) của PGS.TS Trần Thị Trâm đã mang đến cho người đọc bức tranh toàn cảnh đầy thú vị về sự phát triển của dòng văn học này trong giai đoạn hiện đại và đương đại, qua đó khẳng định sức sống mãnh liệt của Văn học dân gian người Việt. Rõ ràng Văn học dân gian không chỉ thuộc về quá khứ mà nó còn là câu chuyện của hiện tại và mai sau. Sự đồng hành của Văn học dân gian bên cạnh văn học thành văn tạo nên toàn cảnh đa sắc màu cho nền văn học dân tộc, khẳng định được những đóng góp quý báu, giá trị to lớn của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

(Box) PGS.TS Văn học Trần Thị Trâm, sinh năm 1954, tại Bình Lục, Hà Nam. Tốt nghiệp K26, Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1977. Giảng viên Học viện Báo chí - Tuyên truyền từ 1983 - 2016. Đã xuất bản 10 đầu sách cá nhân. Hội viên: Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam (từ 2014), Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội (từ 2010).

TS Đỗ Anh Vũ

Tin liên quan

Tin mới nhất

Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam gặp gỡ đoàn phóng viên tờ Nhật Báo Quảng Tây (Trung Quốc)

Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam gặp gỡ đoàn phóng viên tờ Nhật Báo Quảng Tây (Trung Quốc)

Sáng 28/3, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (66 Nguyễn Văn Huyên, Hà Nội), PGS. TS, Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đã có buổi gặp gỡ và làm việc với đoàn phóng viên tờ Nhật Báo Quảng Tây (Trung Quốc).