Để nhận chân nền thơ đương đại

LTS: BBT Arttimes.vn trân trọng gửi tới độc giả bài viết của nhà văn Nguyễn Hiếu đăng trên Thời báo Văn học Nghệ thuật số 9 (136) ra ngày Thứ Năm 2/3 vừa qua. Mấy tháng gần đây, ông trở lại thói quen tới tòa soạn họp "hội nghị" cộng tác viên vào ngày ra báo. Tuần vừa rồi cũng vậy. Không ai có thể nghĩ đó là lần họp cuối của ông...

Tôi còn nhớ cách đây xấp xỉ nửa thế kỉ, khi tôi đã đi làm được ba năm nhưng vốn vừa tốt nghiệp Khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp nên rất mê các tác phẩm văn học trong đó có thơ. Tôi ra hiệu sách ở phố Tràng Tiền tìm mua hai tập thơ mới phát hành của hai nhà thơ có tiếng là Hoàng Trung Thông và Phạm Hổ. Cho đến bây giờ quả tình tôi chỉ còn nhớ nhan đề tập thơ của Hoàng Trung Thông là “Xa khơi” bởi nó trùng với ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ do ca sĩ Tân Nhân trình bày rất hay.

Còn tập thơ của Phạm Hổ thì ngay cả đầu đề tôi cũng quên mà chỉ nhớ câu thơ ca ngợi Khơ-rút-xốp “Áo như trời xanh, tay như bồ câu” vì sự dị dị của nó. Ngay cả hai tập thơ theo tôi có thể xem là không hay đó mà bán rất chạy, bởi ngay hôm sau tôi hỏi mua, cô bán hàng thông báo đã hết. Những tập thơ chất lượng bình thường như thế vào những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ trước còn hút được độc giả như vậy thì các tập thơ danh tiếng như “Ánh sáng và phù sa”, “Bài thơ cuộc đời”, “Gió lộng”… sẽ tạo ra sức tiêu thụ đến thế nào.

Nhìn chung tập thơ tự in bây giờ có hình thức bắt mắt hơn, đó là chưa kể không ít tập thơ lại có những bài bình mà đa phần là tán của không ít các nhà phê bình, các nhà thơ có danh. Cũng phải công nhận là nhiều tập đạt mức trung bình trở lên. Nhưng tại sao thơ trước kia có sức hấp dẫn với bạn đọc còn thơ bây giờ bị chối bỏ?

Thời kì thơ còn hấp dẫn người đọc chính là những tháng năm đất nước ta vừa giành độc lập sau cuộc kháng chiến vệ quốc lần thứ nhất, chuyển sang giai đoạn hoà bình xây dựng và đấu tranh thống nhất đất nước, rồi chẳng bao lâu cả hai miền đều lao vào cuộc chiến tranh. Thơ là thể loại trữ tình tự bạch về trạng thái tâm hồn mình trước sự vật, xã hội, con người xã hội… Nhưng ý thức công dân trong giai đoạn đó đều trở thành tâm sự thường trực trong mỗi nhà thơ, nên dường như tất cả các sáng tác thơ giai đoạn này đều mang cái chung của người Việt Nam với tâm cảm của dân tộc đang vượt khó xây dựng đất nước, và vì miền nam ruột thịt.

Để nhận chân nền thơ đương đại - 1

Ảnh minh họa

Không ít bài thơ đã nhảy từ lĩnh địa của thể loại trữ tình sang lĩnh địa của thể loại tự sự kiểu như bài “Anh Tài Lạc” của Huy Cận, và ngay trong tập “trời mỗi ngày lại sáng” thì tác giả “Lửa thiêng”  “cũng có nhiều bài thơ tự sự tương tự. Những yếu tố cá nhân trong thơ giai đoạn này bị lấp khuất sau cảm hứng công dân kiểu như câu thơ của Chế Lan Viên viết về Hồ Chủ Tịch :

Tôi đến Nha Trang ngắm trời biển đẹp

Có hay đâu hang Pác Bó Bác nằm

Giường lãnh tụ là hai hàng đá ghép

Căn nhà sàn Bác ở quá đơn sơ .

Thơ dạo đó đẩy cảm hứng cá nhân lùi sau những bức xúc, mối quan tâm đến cuộc sống, xã hội. Hay nói đúng hơn cảm xúc cộng đồng hòa cùng với cảm xúc riêng của nhà thơ. Trong khi dân ta đa phần là những người quan tâm đến thời cuộc, đến cái chung. Các tác phẩm thơ dạo đó lại thường được các cơ quan ngôn luận trong đó phải kể đến Đài Tiếng nói Việt Nam với tiết mục “tiếng thơ” hàng đêm quavới giọng ngâm tha thiết của nghệ sĩ Trần Thị Tuyết, Linh Nhâm… đã khiến thơ được chú ý và người yêu thơ càng nhiều.

Để nhận chân nền thơ đương đại - 2

Để nhận chân nền thơ đương đại

Giai đoạn đó không ít nhà thơ đã từng nổi danh về chất công dân như Chế Lan Viên với các bài thơ trăn trở về Bác kính yêu được tập hợp trong tập “Ánh sáng và phù sa”, hay từng được mệnh danh là thi sĩ của đường Trường Sơn như Phạm Tiến Duật với hàng loạt bài thơ nổi tiếng như “Tiểu đội xe không kinh”,”Gửi em cô thanh niên xung phong”, “Nghe em hát trong rừng” in trong tập “Vầng tràng quầng lửa”.

Ngay đến các thi sĩ chuyên thơ tình trong thời kì thơ mới giai đoạn đó cũng ít nhiều từ bỏ sở trường thơ của mình để đến với các đề tài mang nặng chất hiện thực cuộc sống. Xuân Diệu dừng “thơ thơ”,”Gửi hương cho gió “để đến với “Dưới sao vàng”, “Ngôi sao”, “Cầm tay “,’Riêng chung “…để viết những bài thơ “em đi tuyến lửa”, “Gửi Nam bộ mến yêu “Ngói mới”, “Cao, “Trước cổng nhà máy xay”…Huy Cận xa rời “Lửa thiêng “,”Vũ trụ ca “… đến với “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa “,”bài thơ cuộc đời”… để viết “Đoàn thuyền đánh cá”, ”Các vị La hán chùa Tây Phương”, “Ta viết bài thơ gọi biển về", "Nhớ mẹ năm lụt”, “Anh Tài Lạc”… với những cảm xúc cùng những câu thơ chan chứa hiện thực và cuộc sống quần chúng - cái chung như thế nên thơ thế hệ cũ, giai đoạn trước ba thập niên trên tạo được lòng mến mộ của quần chúng. Còn thơ hiện nay?        

Nguyên nhân sự quay lưng với thơ của người đọc bắt đầu từ việc suy sụp của văn hóa đọc không đủ sức cạnh tranh với các phương tiện giải trí, truyền thông hiện đại. Thứ hai thơ giai đoạn này đa phần là những cảm xúc riêng tư với những đề tài quá cũ, không gắn bó gì đến suy nghĩ, tâm tư của con người trong giai đoạn kinh tế thị trường, trong thời buổi xã hội có nhiều biến động.

Một vài nhà thơ tìm đến những đề tài lớn như tình yêu tổ quốc, nhưng lại tạo ra các bài thơ với những câu từ sáo rỗng gần giống như khẩu hiệu. Về nghệ thuật thì hơn ba thập kỷ nay chưa có sáng tạo nào mới, chưa có nhà thơ nào nổi trội. Các nhà thơ, kể cả các nhà thơ có tiếng đều dường như chưa tạo ra phong cách riêng, họ viết ra những bài thơ từa tựa nhau “giống như người lính nhìn từ đằng sau” từ cảm hứng, tứ thơ, cách chọn từ, đặt câu, cấu trúc…

Hiện tượng thơ “lẫn”, thơ “giống nhau” ngày càng phổ biến. Riêng thơ Trần Mạnh Hảo là trường hợp được người đọc tìm đến vì, bằng sự quan sát tinh tế, bằng sự dấn thân và một cách nhìn của nhà thơ có trách nhiệm với cuộc đời, với con người, ông đã phản ảnh khá đầy đủđù, toàn diện các mặt của sự kiện được thơ ông chạm đến một cách khách quan và đầy sự nồng nhiệt có chủ kiến, có trách nhiệm,  thơ viết ra không chỉ vì thơ mà còn vì sự quan tâm đến xã hội, cuộc đời bằng một cách viết tài năng, ấn tượng như khi ông viết về thi sĩ Thanh Tùng đất cảng:

Ông vừa đi vừa hốt hoảng

Nhồm nhoàm nhai những đám mây Hải Phòng

Đêm đói quá nằm mơ ăn hải cảng

Và Hải phòng ông đã uống xong

(“Người ăn hải cảng”, Thanh Tùng, trang 192-193).

Chính các nhà thơ cũng nhận ra sự nhàm chán bởi sự lẫn, cũ và xuống cấp trong thơ nên không ít nhà đi tìm sự thay đổi, dị biệt cho thơ mình từ việc mô phỏng lại cách viết trong thể phú ở văn học cổ điển ( thơ văn xuôi), đến việc nghĩ ra các thể thơ lạ như thơ “năm câu, sáu câu, đa thanh”. Nhưng họ quên một điều, thể thơ không phải do nhà thơ nghĩ ra mà nó hình thành từ thực trạng, thể chế xã hội. Một trật tự đỉnh cao của phong kiến thời nhà Đường mới tạo nên thể thơ Đường luật.

Một sự thắng thế của phái võ sĩ đạo mới tạo ra thể thơ Hai cư. Một nền văn hóa lúa nước và đặc trưng ngôn ngữ Việt Nam mới sinh ra thơ lục bát. Cũng cần kể thêm nguyên nhân làm thơ bị độc giả quay lưng vì nền phê bình văn học nói chung và phê bình thơ nói riêng: Hầu hết các bài phê bình thơ hiện nay là những bài giới thiệu sách, nặng về tán tụng, vuốt ve mà thiếu hẳn sự mổ xẻ, phân tích thấu đáo, hai chiều.

Trong khi hầu hết các nhà thơ lặn ngụp trong các đề tài riêng tư, thậm chí khi viết về  những đề tài lớn thì đa phần vẫn không thoát khỏi sự phô diễn những trăn trở cá nhân không gắn gì với suy tư, sự quan tâm của quần thể xã hội, nỗi bức xúc của con người trước thực tế, đặc biệt là những ngang trái, bất công ngược với lòng người. Chính sự ẩn mình quá sâu trong sự riêng tư này nên hầu hết các nhà thơ luôn vuốt ve, đánh bóng cảm xúc của mình bằng những vần thơ, câu chữ vô hại chỉ để phản ánh mặt đẹp, mặt thuận chiều của cuộc sống, của xã hội.

Điều này không chỉ ở thơ mà ở nhiều thể loại khác của văn học nước ta ba thập niên qua. Trong khi sự vật bao giờ cũng hai chiều, nhiều chiều. Sự đơn điệu né tránh sự phức tạp của đối tượng phản ảnh đã khiến văn chương nước ta không có được những tác phẩm lớn, trong đó thơ lại càng bị độc giả chối từ. Hai cuộc chiến tranh vệ quốc của chúng ta không có những tác phẩm lớn, hoặc những tác phẩm lớn chưa được phát hiện cũng vì điều này.

Để nhận chân nền thơ đương đại - 3

Các tác phẩm thơ chất lượng đã nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Sau chiến tranh, độc giả thế giới rất muốn biến thực tế xã hội ta ra sao, tâm trạng người Việt với những vết lằn của chiến cuộc ra sao cũng không được mô tả đầy đủ, thuyết phục. Tác phẩm văn chương nước ta trong đó có thơ không tạo ra được những tác phẩm xứng đáng với thời đại, con người Việt Nam chính vì lẽ đó. Đó chính là nguyên nhân khái quát khiến thơ nguội lạnh trong lòng người đọc.

Tuyển thơ Trần Mạnh Hảo, Nhà xuất bản Hội nhà văn in lần đầu 1000 bản, chỉ trong một tháng đã bán hết, phải in thêm. Hiện tượng độc giả háo hức tìm đến thơ Trần Mạnh Hảo cho thấy một hiện tượng mừng - là thơ có thể khôi phục được sức hấp dẫn đối với người đọc. Nhưng bằng cách nào? Trình độ, nền nếp xã hội cũng như tâm lý, cách thưởng thức văn hoá, nghệ thuật của con người đã thay đổi, muốn thơ từng bước chiếm lại vị trí trong lòng người đọc thì phải chăng cần một cú hích từ cộng đồng xã hội, từ sự thay đổi cơ bản, thực sự trong thi pháp và cả thái độ đối với thể loại tưởng dễ mà lại khó này của văn học ở các nhà thơ và cả các nhà quản lý, hay trông chờ vào lớp nhà thơ mới trong đó có những nhà thơ thực sự có chân tài ?

Nguyễn Hiếu

Tin liên quan

Tin mới nhất