60 năm quan hệ Việt - Lào: Bài 4 - Lính công binh Đường 7
Nhân kỷ niệm 60 năm ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (5/9/1962 - 5/9/2022) và 45 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào (18/7/1977 - 18/7/2022), Arttimes.vn trân trọng giới thiệu tới bạn đọc loạt bài "Khúc tráng ca về Đường 7 - Cánh đồng Chum" của cụm 5 tác giả đều từng là cán bộ chiến sĩ chiến đấu trên mặt trận Cánh đồng Chum - Lào (Châu La Việt, Phạm Trung Nhân, Nguyễn Ngôn, Hoàng Ngọc Chấp, Nghiêm Xuân Thép).
60 năm quan hệ Việt - Lào: Bài 1 - Bản hùng ca về Binh trạm 13 và Cánh đồng Chum
60 năm quan hệ Việt - Lào: Bài 2 - Chuyện kể của người lái xe từng ở hai đại đội anh hùng
60 năm quan hệ Việt - Lào: Bài 3 - Lưới lửa phòng không trên tuyến đường 7
Đợt nhập ngũ năm ấy, làng tôi có sáu thằng, tuổi sàn sàn như nhau, mười tám, đôi mươi. Mỗi đứa mỗi cảnh, nhưng đều chung một cảnh nghèo.
Dân quê tôi nghèo lắm. Năm nào cũng thiếu ăn, có nhà thiếu đến hai ba tháng. Chúng tôi có sáu đứa thì năm đứa học hành dở dang, duy nhất chỉ có tôi là học xong cấp ba trường huyện. Cả làng chỉ có vài nhà có xe đạp, hôm đưa chúng tôi lên huyện tập trung, nhiều nhà phải sang hàng xóm mượn từ chiều hôm trước, mượn được xe đã là vinh dự lắm rồi (chỉ có đưa tân binh lên đường hoặc đi viện cấp cứu họ mới cho mượn). Với lại, có phải ai cũng biết đi xe đâu.
Trong số chúng tôi, nghèo nhất nhà thằng Dũng, bố mất sớm, mẹ phải tần tảo nuôi sáu anh em nó. Anh Hùng là lớn nhất. Anh nhập ngũ được hai năm rồi hy sinh, giấy báo tử người ta ghi hi sinh ở mặt trận Sài gòn, Gia định năm 1968.
Hôm ấy, người đưa tiễn đông lắm. Đứa nào cũng có bố mẹ, anh em bạn bè đưa đi, ngoài đường người đi như đi hội. Thằng Dũng chỉ có mình đứa em gái giáp nó đi cùng. Cô em giằng lấy cái túi của anh, khoác vào vai, hai anh em chạy vã đến nơi thì vừa lúc người ta gọi tên nó. Nó bảo em quay về rồi đứng vào hàng, mặt quay đi nơi khác.
Dũng thương mẹ lắm, việc gì nặng cũng giành lấy. Mẹ bảo thế nào nó cũng không nghe. Hôm qua nó còn trèo lên mái nhà dặm lại cho mẹ mấy chỗ dột, đến trưa mẹ gọi mãi nó mới xuống. Hôm ấy bà làm bữa cơm liên hoan để ngày mai Dũng lên đường. Bữa cơm có cả thịt lợn kho, đậu phụ. Chả là nhà có người đi bộ đội nên hợp tác xã người ta mổ lợn ưu tiên phân phối cho. Mấy đứa em thích lắm, gắp liên tục, mẹ nó phải nhắc: Chúng mày ăn từ từ, còn phần anh chứ. Chúng nó nhìn Dũng rồi lại nhìn bát thức ăn. Dũng gắp thêm cho em, cho mẹ, rồi đứng dậy bảo no rồi, không ăn nữa.
Đêm ấy, mẹ Dũng không ngủ, nửa đêm bà dậy, rón rén nhóm lửa nấu cơm. Cơm chín, bà với cái mo cau đã chuẩn bị từ chiều hôm trước hơ vào ngọn lửa cho nóng, cái mo mềm ra. Bà xới cơm vào, nén thật chặt, thằng Dũng nhà bà có ăn mấy ngày cơm vẫn dẻo, bà cẩn thận nhét nắm cơm vào túi cùng với bộ quần áo của anh Hùng để lại cho Dũng trước ngày anh nhập ngũ. Bà sợ nhỡ chính phủ chưa phát kịp thì nó còn có cái để thay đổi.
Rạng sáng, bà đánh thức hai anh em dậy ăn uống qua quýt rồi bà giục hai đứa đi cho kịp. Đưa con ra cửa, nắm tay Dũng, bà dặn: Con yên tâm mà đi, không phải lo cho mẹ, cố gắng học tập, rèn luyện cho bằng anh bằng em, giữ gìn sức khỏe, tránh hòn tên mũi đạn, hoà bình rồi con về với mẹ với em.
Nói xong, bà nấc lên, đổ ập vào vai Dũng, lịm đi, mấy đứa em thấy vậy, khóc váng lên. Dũng đưa mẹ vào giường, bà tỉnh lại bảo mấy đứa nhỏ: Mẹ không sao, các con nín đi, rồi chào anh, anh đi vài năm, hoà bình anh lại về với mẹ con mình. Bà nhìn đàn con, giấu tiếng thở dài. Lại thêm một đứa nữa rời khỏi vòng tay bà.
Dũng ôm lấy các em rồi quay đi, bước vội ra cửa, bên ngoài trời đã sáng.
Là người lính chúng tôi phải đối mặt với chiến tranh, với kẻ thù, với sự sống và cái chết, và đối mặt với chính mình.
Ảnh tư liệu minh họa
Đã sang tháng 9, đêm xuống trời lành lạnh, cánh lính trẻ chúng tôi chìm sâu trong giấc ngủ. Bỗng nhiên tôi giật mình nghe, tiếng kẻng báo động dồn dập, tiếng còi rít lên, tiếng gọi nhau, tiếng chân người chạy huỳnh huỵch. Tôi nhảy xuống đất, thò tay vào màn của thằng Dũng đập mạnh vào lưng nó. Hai đứa nhanh chóng thu dọn quân trang nhét vào ba lô, tay vớ khẩu súng, chúng tôi lao ra ngoài.
Ánh đèn pin loang loáng xé nát không gian, tiếng người chỉ huy đanh gọn, yêu cầu các trung đội kiểm tra quân số, ngoài đường một đoàn xe phủ bạt kín mít, bóng người đi lại lố nhố. Tôi cảm thấy có cái gì đó khang khác, không bình thường.
Điểm danh xong, chúng tôi được thông báo: Đơn vị nhận lệnh đi chiến đấu. Và lên xe ngay lập tức. Bầu không khí căng thẳng, dồn nén. Tôi thấy ngộp thở, lồng ngực căng lên. Xe nổ máy từ từ chuyển bánh. Lại nghe tiếng ồn ào, có ai đó gọi tên chúng tôi. Thì ra, bây giờ bà con nơi chúng tôi đóng quân mới biết. Họ cứ tưởng như mọi hôm, báo động xong chúng tôi lại về . Tôi nghe thấy cả tiếng khóc, tiếng chào nhau. Xiết chặt khẩu súng trong tay, cố thò đầu ra ngoài tôi hét to: “Hoà bình chúng tôi sẽ về”.
Đoàn xe tăng ga, lao nhanh. Tạm biệt hậu phương, tạm biệt bà con, những người đã đùm bọc, thương yêu chúng tôi trong những tháng ngày qua. Nhất định chúng tôi sẽ về.
Sau những ngày dài hành quân vất vả, xe đưa chúng tôi tới một cánh rừng phía Tây Nghệ An giáp biên giới Việt Lào. Đây là hậu cứ của binh trạm 13
Tất cả chúng tôi đều được biên chế vào các đơn vị : pháo phòng không ,vận tải, kho, và Công binh. Tôi và Dũng được biên chế vào đại đội 10 tiểu đoàn công binh số 4( D4). Một đơn vị đã nhiều năm chiến đấu ở chiến trường Lào, có nhiều thành tích, nhưng quân số thì lại thiếu, một phần do hy sinh trong chiến đấu, một phần do bệnh tật, đau ốm phải chuyển về tuyển sau.
Sau một tuần nghỉ ngơi học chính trị, chúng tôi được bổ sung quân trang, quân dụng. Hôm nhận quân trang, lúc cầm trên tay một cái túi ni lông và một chiếc túi vải giống như cái vỏ chăn, tôi nhìn Dũng chưa biết nó là cái gì thì người cán bộ cấp phát hiểu ý nói luôn : “Đây là túi dùng cho tử sĩ. Khi chết người ta cho vào túi vải, sau đó cho vào túi ni lông này (Anh kéo rộng cái miệng túi ra, rồi lại buộc vào cho chúng tôi nhìn). Nếu có điều kiện thì đưa về nước, nếu không thì ...
Anh nhìn chúng tôi không nói nữa, chúng tôi hiểu anh muốn nói gì . Tôi cẩn thận gập cái túi lại, cho xuống đáy ba lô, chỉ mong sao không phải dùng đến nó. Nhìn sang Dũng, tôi vẫn thấy nó bần thần cầm cái túi trên tay rồi lẳng lặng quay về, trèo lên võng nằm , đến khi tôi gọi đi tắm nó mới dậy.
Bữa cơm chiều hôm ấy, chúng tôi ăn sớm hơn mọi ngày. Ăn xong có lệnh tập trung di chuyển, sẩm tối chúng tôi vượt biên giới qua cửa khẩu Nậm Cắn bằng xe cơ giới. Trời tối đen như mực, đường rất xấu, hố bom nham nhở, sâu hoắm, trên đầu máy bay địch quần đảo, xe phải bật đèn gầm, tầm nhìn bị hạn chế nên cứ nhảy chồm chồm. Trên xe chúng tôi đè cả lên nhau, nhưng không ai kêu. Đêm đầu tiên ra chiến trường mà , dũng khí vẫn còn nguyên, xóc có là gì với chúng tôi. Tôi chợt nhớ tới bài thơ Tây tiến của Quang Dũng, hứng chí đọc luôn mấy câu :
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông, mưa xa khơi ..."
Tiếng vỗ tay rộ lên, anh em bắt tôi đọc trọn vẹn cả bài.
Đọc xong, tôi thấy cả xe lặng đi, không thấy ai vỗ tay và nói câu nào nữa, tôi hoảng quá hét to :Tại chúng mày bảo tao đọc chứ, sao bây giờ lại thế này ?
Lúc bấy giờ tiếng vỗ tay mới rào rào trở lại. Thằng Dũng nói : Lúc nãy chúng tao không nói được, vì xúc động quá. Cái ông nhà thơ này tài thật. Ông ấy nhìn và nghĩ giống hệt như mình, mà ông ấy lại làm ra bài thơ thật hay, còn mình thì chịu. Cả xe phá lên cười. Không khí ồn ào trở lại. Cánh lính lại quay ra bình tiếp bài thơ của Quang Dung suốt một chặng đường dài.
Đêm khuya hôm ấy, xe đưa chúng tôi vào sâu trong đất bạn. Đến Dốc Chuối, thì người dẫn đường thông báo: Tất cả xuống xe, hành quân bộ. Vì từ đây, máy bay địch thường xuyên đánh phá không theo một quy luật nào. Ngoài ra dưới mặt đất bọn Thổ phỉ cũng hoạt động rất mạnh, nếu lực lượng ta it chúng sẽ tổ chức tập kích, nếu ta mạnh chúng sẽ gọi máy bay. Anh yêu cầu mọi người chú ý, giữ bí mật, giữ khoảng cách, đèn pin bịt kín chỉ để một chấm sáng như hạt ngô. Cả đoàn chống gậy hành quân trong im lặng.
- Huỵch
Phía trước có người vừa bị ngã
-Tháo đạn đứng dậy .
Tiếng cười bất ngờ rộ lên, im lặng bị phá vỡ. Không khí vui vẻ trở lại, có tiếng nói chuyện rì rầm trong hàng quân.
Gần sáng thì cả đoàn tới bờ sông Nậm Mật. Dưới ánh pháo sáng, con sông hiện ra rõ mồn một. Mặt sông khá rộng , nước loang loáng chảy xiết . Pháo sáng vừa tắt, chúng tôi ào xuống , nước sâu ngang ngực, lạnh buốt.
Sang tới bờ bên kia an toàn, số anh em đi trước vượt lên, cảnh giới . Số sang sau đang thay quần áo thình lình phía bờ bên kia những quầng lửa bùng lên, tiếng bom nổ dữ dội . Tiếng mấy bay rít trên đầu . Bị bất ngờ, chúng tôi lăn tròn trên đất nằm đè lên nhau. Nằm dưới tôi thấy lưng mình bị ướt, nong nóng.
- Thôi chết, thằng nào bị thương rồi
Tôi đưa tay ra sờ ,cho lên mũi ngửi.
- Nước đái, khai quá
Tôi hét to rồi co chân đạp tung thằng ở bên trên ra.
-Thằng Dũng, mày hèn quá, mới có thể mà đã tè cả ra quần.
Nó lại lao vào, đè lên tôi nó bảo: "Tao không phải thằng hèn, mày biết rồi mà (Vì đã có lần tôi chứng kiến nó, tay không bắt sống một con rắn hổ mang khả to)
-Thế sao mày lại tè ra quần?
- Không phải tao tè ra quần , mà đang tè bất ngờ nó ném bom, thế là tao kéo quần lên, không kịp phanh…
Chúng tôi phá lên cười, nó cũng cười, cười chảy cả nước mắt. Hú vía, chỉ chậm một chút thôi thì giờ này chẳng còn thằng nào ngồi đây mà cười nữa…
Bất giác tôi đưa sờ vào ba lô. Nơi có cái túi vải vẫn nằm yên ở đó .
Sau loạt bom tọa độ, cả đơn vị nhanh chóng rời khỏi bờ sông, sương xuống nhiều, mặt mũi tê cóng mà mồ hôi vã ra ướt cả lưng áo .
Trời sáng dần. Những cánh rừng già lùi lại phía sau . Chúng tôi đi trong những đồi cỏ tranh cao lút đầu người. Có mùi thơm dễ chịu thoang thoảng trong gió. Mùi ổi chín. Đích thị là mùi ổi. Nhà tôi có cây ổi to lắm, mùa này quá chín trắng mùi thơm toả khắp vườn.
Đi tiếp một đoạn nữa thì đột ngột xuất hiện trước mắt chúng tôi cả một rừng ổi , ổi chín trắng trên cây, rụng trắng lối đi. (Rừng ổi thật rồi. Đấy không phải là rừng mơ mà Tào Tháo đánh lừa binh lính trong cơn khát). Lính ta reo lên, vừa ăn, vừa nhặt, nhét đầy cứng túi cóc .
Chúng tôi đi qua những làng bản bỏ hoang. Những cây xoài già, thân mốc thếch trụi lá. Những nếp nhà sàn xiêu vẹo, cháy dở, nham nhở. Những hàng cột cháy sém đen thui như những cây thánh giá in bóng lên trời , hoang vắng đến rợn người. Những con chó vô chủ chu chéo sủa, rồi lao vút vào đám cỏ tranh phía trước.
Vùng này này hồi cuối năm ngoái địch mở chiến dịch (Cù Kiệt). Đánh ra chúng dồn hết dân đi, phần còn lại thì chạy về phía biên giới Việt Nam. Chờ giải phóng sẽ quay về.
Chiều ngả bóng chúng tôi về tới nơi đóng quân. Mọi người ùa ra đón, ôm chặt chúng tôi vào lòng, như đón những người thân đi xa lâu ngày mới trở về.
Đại đôi tôi có ba trung đội, rải ra trên cung đường dài ngót hai chục cây số . Tôi với thằng Dũng ở cùng một trung đội . Đèo Phu Nốc Cốc nơi trung đội tôi chốt giữ là trọng điểm ác liệt nhất tuyển đường 7A.
Tại đây, địch dùng đủ các loại máy bay, các loại bom đạn đánh phá không có giờ giấc, không có quy luật, không kể thời tiết. Dưới đất bọn Thổ phỉ liên tục phục kích (Nơi đây bộ đội ta gọi là đèo phỉ). Ta thiếu cảnh giác là chúng tập kích ngay.
Mặc dù được ưu tiên về cơ sở, vật chất, và quân số nhưng vẫn có những ngày bị tắc đường, ta chịu không it thương vong, thậm chí hy sinh. Có đêm mười xe vào bị máy bay địch bắn cháy hết, gần sáng quay ra không còn một chiếc. Hơn một chục người băng bó, nhếch nhác,thay nhau khiêng trên vai chiếc võng, tử sĩ, mắt họ đỏ vằn những tia máu, bước đi lầm lũi.
Trước tình hình ấy chúng tôi nhận được nhiệm vụ mới :Bằng bất cứ giá nào cũng phải đảm bảo giao thông thông suốt, đồng thời phải mở một con đường tránh để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch. (Lúc này một số đơn vị đã phải tổ chức cho bộ đội gùi bộ qua trọng điểm).
Với chúng tôi, mở đường là một công việc hoàn toàn mới. Chúng tôi được huấn luyện bộ binh, chuyên đánh rừng núi. Những bài luồn rừng, phục kích, tập kích, lăn lê, ném lựu đạn tấn công trong rừng thì chúng tôi thuộc loại thiện chiến, nay chuyển sang công binh thì lại phải học từ đầu.
Không có thời gian học lý thuyết, mọi người học ngay trên thực địa. Thú thật, tôi khá run khi lần đầu tiên cầm cái mỏ lết tháo ngòi quả bom nổ chậm. Mồ hôi vã ra, mắt mờ đi, chỉ chờ nghe một tiếng nổ, mặc dù người hướng dẫn tôi là trung trưởng Hoàng vẫn ngồi chễm trệ trên thân quả bom.
Không có tiếng nổ nào . Tôi mở mắt ra. Anh cười, bảo tôi làm tiếp. Mọi việc cứ thế quen dần. Chúng tôi thành thạo công việc của người lính công binh. Từ nhận dạng các loại bom min, đến cách phá gỡ bom, cách đặt và đánh một khối bộc phá sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Hình hài con đường mới đã hiện ra. Các loại phương tiện chiến tranh hiện đại của địch bị chúng tôi bịt mắt , chúng tôi chuẩn bị những trận địa giả, cách xa đường, đêm đến đốt một đống lửa nhỏ, máy bay địch bị hút về phía đống lửa, thả pháo sáng, ném bom, vãi đạn xuống, làm mục tiêu cho pháo cao xạ . Bên này xe ta vượt tuyến an toàn.
Cuối năm đơn vị tổng kết tôi và thằng Dũng có tên trong danh sách đề nghị về tuyển sau học đối tượng Đảng.
Từ hôm nhận được thông báo : Chuẩn bị về hậu cứ học đổi tượng Đảng, nếu có điều kiện sẽ được về thăm nhà mấy ngày, chúng tôi mừng lắm. Thằng Dũng đêm nào cũng chui sang hầm tôi, nói chuyện đến khuya. Nó mường tượng ra bao nhiêu là chuyện.
Nó hỏi tôi đã chuẩn bị gì chưa? Tôi bảo chẳng có gì để chuẩn bị, mà cũng chẳng chuẩn bị gì, nếu được về, nhìn thấy bố mẹ, các em khỏe là tốt, sau đó thăm bạn bè, tán được em nào xinh xinh rồi đi là vô tư luôn.
Nghe tôi nói xong, nó nằm im một lúc lâu mới nói giọng buồn buồn: Tao cũng chẳng chuẩn bị được gì ngoài mảnh dù hoa về cho đứa em gái làm vải ngụy trang để đi tập dân quân, với cái lược làm bằng mảnh máy bay, bao giờ nó lấy chồng, đem theo làm kỷ niệm, để lúc nào chải đầu nó cũng nhớ tới tao. Cả nhà tao bây giờ trông cậy tất vào nó.
Hôm đưa tao lên đường, nó bảo: "Anh cứ yên tâm đi đi, mọi mọi việc ở nhà đã có em, em lớn rồi, bao giờ, hoà bình anh về em mới lấy chồng". Thương em quá, tao phải quay mặt đi, chỉ sợ nó nhìn thấy mình khóc .
Còn mẹ tao từ ngày bố mất, rồi anh Hùng hy sinh, đêm nào bà cũng khóc, người gầy rộc đi, lại như một cái bóng khi biết tao làm đơn tinh nguyện nhập ngũ. Bà lại bảo: "Con hãy suy nghĩ cho kĩ, mẹ có thể nói với các bác lãnh đạo cho con ở lại, nhưng con đã quyết thì con đi. Đi nhớ là phải cố gắng phấn đấu, tiến bộ, cho bằng anh bằng em, đừng phụ lòng mẹ, và mọi người…"
Mùa khô năm 1971
Con đường của chúng tôi đã hoàn thành, nó như một mũi dao nhằm vào yết hầu của địch . Mặt trận Cảnh Đồng Chum mở màn. Đêm đêm chúng tôi nghe tiếng đại bác từ mặt trận vọng về rõ mồn một. Nhằm cứu vãn thất bại địch sử dụng không quân đánh phá ác liệt, cung đường sôi lên như một chiếc chảo lửa, chúng tôi ăn không có bữa, ngủ không có giấc người khô đi, tóc tai quần áo bụi đất, xơ cứng không có thời gian tắm giặt .
Đột nhiên, có tin văn công đến. Văn công đến thật. Đoàn văn công xung kích Hà Nội họ biểu diễn ngay trên trọng điểm, các cô gái như những nàng tiên, mới lần đầu mà thân mật như người nhà. Không có sân khấu, không hóa trang, chủ và khách nắm tay nhau hát. Lính ta tròn mắt nhìn các cô văn công bằng xương bằng thịt hát, lại là gái Hà Nội mới oách chứ , toàn là hoa khôi mà sao lại gần gũi, lại thân thiện đến thế. Lúc chia tay đã có thằng xin chữ kí, rồi địa chỉ để sau này hòa bình có dịp qua Hà Nội sẽ ghé thăm.
Buổi chiều chia tay với đoàn văn công thì tối đến chúng tôi nhận được thông báo: Đêm trước địch đã cho quân bí mật nống ra chiếm một số vị trí quan trọng trong đó có một điểm cao giữa cảnh đồng của bản Nậm phot sát tuyến đường vận chuyển của ta. Từ đây chúng sử dụng bộ binh, hỏa lực bắn thẳng hoăc gọi máy bay dễ dàng kiềm chế và cắt đứt tuyến cung cấp của ta cho mặt trận. Chúng tôi nhận được lệnh phối hợp với các đơn vị bạn bằng mọi giá phải chiếm được điểm cao này giành lại quyền chủ động.
Ngay trong đêm , đơn vị tổ chức hành quân, các đồ dùng không thiết yếu để lại, chỉ đem theo một ít lương khô, nước uống, tăng, võng, còn lại là đạn. Theo kế hoạch tác chiến, đại đội chia làm ba mũi, tiểu đội trinh sát ở giữa xuất phát trước, nắm địch, hai trung đội còn lại đi hai bên, khi gặp địch hai mũi vu hồi dồn địch lại cho các loại hỏa lực Cầu Vồng của ta ở phía sau tiêu diệt.
Tiểu đội trinh sát chúng tôi có tám người, do trung đội trưởng Lê Huy Hoàng chỉ huy. Anh là một chỉ huy dũng cảm, tháo vát, có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu. (Sau này anh được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT). Tôi và thằng Dũng được biên chế vào tiểu đội này. Dưới ánh pháo sáng chúng tôi cắt rừng đi suốt đêm, sương xuống nhiều, cả súng và người ướt đẫm.
Tang tảng sáng thì tới chân cao điểm. Chúng tôi tranh thủ nghỉ ngơi và bí mật triển khai đội hình. Tiểu đội chia thành ba tổ. Tổ giữa hai người trong đó có Dũng, tổ bên trái ba người, tổ bên phải ba người có tôi, trung đội trưởng Hoàng và thằng Cường.
Trời sáng dần những vạt cỏ tranh bị gió thổi mạnh dạt xuống. Chúng tôi nằm dán mình xuống đất, nghe ngóng. Có mùi gì là lạ, hăng hắc? Mùi thuốc chống muỗi,vắt?
- Có địch.
Trung đội trưởng khoát tay cho chúng tôi lùi xuống.
Phía trước cách chúng tôi khoảng hơn chục mét, một vạt cỏ tự nhiên lay động. Anh Hoàng nhặt một cục đất ném về phía đó. Tôi ôm súng lăn tròn sang phải. Một quầng lửa bùng lên, cùng một tiếng nổ dữ dội, đất, đá bay rào rào. Tôi có cảm giác bị một luồng không khí cực mạnh đẩy nngược về phía sau. Chúng tôi bị địch phục kích.
Sau tiếng nổ của quả mìn định hướng, bọn địch bắn như vãi đạn về phía ta. Tiếng súng A R15 rát rạt. Tôi nghe được tiếng những tên chỉ huy lính ngụy Lào hò hét bắt lính xông lên. Bị bất ngờ, quân ta chưa kịp bắn trả. Anh Hoàng ra hiệu cho tôi tiến lên, còn anh bò quay lại tổ của Dũng. Không thấy ta nổ súng, bọn địch chủ quan đứng cả dậy. Chỉ chờ có thế, tôi cong người, vòng tay tung một chùm hai quả lưu đạn, hai tiếng nổ nối tiếp nhau, hai cột khói bốc lên. Tiếng địch la hét hỗn loạn.
Quay sang phía thằng Cường, tôi thấy nó cũng đứng thẳng người lên, hàm trẹo sang một bên, nó nghiến răng, bóp cò, xả hàng tràng đạn không cần ngắm. Bên cánh chính giữa và cánh trái tiếng AK cũng rộ lên, các mũi phối hợp cũng đồng loạt nổ súng. Địch tháo chạy.
Trận đánh diễn ra chớp nhoáng, và cũng nhanh chóng kết thúc. Chúng tôi không truy kích theo bọn địch mà vòng trở lại tổ chính diện, cỏ cây ngổn ngang, cháy xém, khét lẹt. Có tiếng người lao xao, tôi lao tới. Anh Hoàng đang bế thằng Dũng trên tay ,ngực nó loang máu, mắt nhắm nghiền. Tôi đưa hai tay áp vào hai má nó, lắc mạnh, vừa lắc vừa gọi :
- Dũng ơi, mở mắt ra tao đây ! Mở mắt ra. Mày có nhận ra tao không? Nước mắt tôi chảy ra.
Tôi cầm lấy hai tay nó áp vào má mình gọi tiếp:
- Dũng ơi, mở mắt ra mày đừng chết.
Tôi thấy tay nó nắm tay tôi chặt hơn, mắt từ từ mở ra, nhìn mọi người , rồi nhìn tôi thều thào, khó nhọc ,nói đứt quãng: "Tạo... tao không sống được đâu, nếu ...nếu mày về được thì nói...với với mẹ tao là...tao vẫn khỏe ...và đưa hộ cho em gái tao mảnh vải dù và cái ...cái lược".
Tôi thấy bàn tay nó nắm tay tôi bỗng nhiên lỏng ra,không nói nữa, mắt nó nhắm lại đầu ngả sang một bên. Tôi gào lên :
-Dũng ơi !
Anh Hoàng ôm ghì nó vào ngực máu loang đỏ cả áo anh: "Dũng hy sinh rồi”. Anh nghẹn ngào.
Cả tiểu đội bỏ mũ ,đứng yên. Không ai khóc. Nhưng nước mắt chảy dài trên những khuôn mặt hốc hác.
Tôi lục balo của nó, lôi từ dưới đáy lên tấm vải niệm , tấm vải mà lúc nhận quân trang , nó tần ngần cầm trên tay rồi nhét xuống dưới cùng . Ai cũng mong không phải dùng đến nó.
Vậy mà hôm nay thằng bạn đồng hương của tôi đã bị viên đạn của kẻ thù găm vào ngực trái, lúc nó vừa tròn hai mươi tuổi.
Sau khi Dũng hy sinh, BT đã đưa anh về nước. Đại đội được tăng cường thêm lực lượng, tổ chức rút kinh nghiệm, tiếp tục tham gia chiến đấu truy quét địch trên toàn tuyến.
Chiến dịch kết thúc thắng lợi, tuyến giao thông chiến lược được giữ vững cánh cửa vào Sảm Thông, Long Chẹng mở toang .Đường vào Viêng chăn thủ đô của Lào không còn xa. Kế hoạch về nước học đối tượng Đảng của chúng tôi cũng không kịp thực hiện.
Tháng1/1973, địch phải ký hiệp định đình chiến về chiến tranh ở Lào. Sứ mệnh lịch sử của BT13 kết thúc. Đơn vị giải tán, chúng tôi chia tay nhau, mỗi người một ngả, người ở lại tiếp tục nhận nhiệm vụ giúp bạn, người ra quân trở về hâu phương. Tôi cùng với đại đội của mình lật cánh về phía đông Trường Sơn rong ruổi trên các cung đường.
Đến tháng 4/1975, hội quân cùng năm cánh quân tiến vào Giải Phóng Sài Gòn. Nhưng lòng tôi vẫn canh cánh với lời hứa về thăm mẹ và đem tấm vải dù cùng chiếc lược về cho em gái Dũng. Mảnh dù và chiếc lược mấy năm qua đã theo tôi đi khắp các chiến trường , với lời dặn của nó: "Nếu mày về được ..."
- Dũng ơi tao sẽ về, nhất định tao sẽ về. Đã bao lần tôi thầm nói chuyện và hứa với nó trong những đêm không ngủ y như lúc nó còn sống, hai thằng rúc sang hầm ngủ với nhau.
Cuối cùng thì tôi cũng đã được về nhà. Ấy là dịp Tết năm 1975. Sau 5 năm xa nhà, tôi nhận ra quê mình cũng đã có nhiều thay đổi, tuy vậy cái đói, cái nghèo vẫn hiện hữu. Nhưng con người thì khác, nhìn nét mặt ai cũng hân hoan vui mừng, người ta cười bằng miệng, bằng mắt, họ nắm tay có người ôm tôi thật chặt đến nghẹt thở.
Sáng 30 Tết Nguyên Đán, tôi dậy sớm, đóng bộ quân phục mới tinh đạp xe đến nhà Dũng. Căn nhà vẫn ở chỗ cũ,nhưng người ta đã thu nhỏ bớt lại ,thay cái mái rạ cũ nát bằng mái ngói mới . Nghe có tiếng người, Hạnh - em gái Dũng chạy ra nhìn tôi sững lại một lát, em lao vào ôm lấy tôi nước mắt giàn giụa , hai tay em lắc mạnh hỏi tôi trong nước mắt: "Sao anh em không về hả anh?”.
Châm cây nhang Hạnh đưa cho tôi cắm lên ban thờ, cùng với gói giấy báo có mảnh vải dù và chiếc lược Dũng gửi cho em. Nhìn lên ảnh bạn và tờ giấy báo tử tôi chắp tay khấn bạn. Cầu cho linh hồn Dũng cùng những anh hùng, liệt sĩ những người đã khuất phù hộ cho chúng tôi vạn sự như ý ,cầu mong cho quốc thái dân an.
Trở lại bàn. Hạnh trao cho tôi chén nước, em kể giọng khe khẽ: "Từ ngày các anh đi, ở nhà không nhận được tin tức gì, gần một năm sau thì có tin anh Dũng em hy sinh. Mẹ em buồn lắm, bà đổ bệnh từ đấy. Em thì vẫn cứ hy vọng nói với mẹ là nhất định anh Dũng sẽ về . Bà nói: Với lính tính của người mẹ ,mẹ biết nó không về đâu con ạ . Thế rồi cái việc không mong chờ ấy đến đúng vào ngày anh Hùng em hy sinh. Giấy báo tử ghi rõ: Hy sinh ở mặt trận phía Tây, an táng tại nghĩa trang liệt sĩ Việt Nam - Lào".
Mọi người phải đỡ mẹ mới ngồi dậy được, bà không khóc, cũng không nói lời nào mắt cứ nhìn trân, trân vào hai tấm bằng Tổ Quốc ghi công . Từ hôm ấy bà không dậy được nữa, mấy tháng sau thì bà mất. Bây giờ chỉ còn mấy chị em. Em cũng không biết phải làm thế nào?
Em nhìn tôi yên lặng, mắt ngấn nước.
Chén nước trên tay tôi nguội từ lúc nào ,khẽ đặt xuống bàn tôi kể cho em nghe về những ngày tôi với Dũng ở bên nhau những lần đi phá bom, những đêm không ngủ, về chiếc lược và tấm vải dù, về sự hy sinh của Dũng như một người anh hùng Dũng còn dặn tôi bảo em : "Tấm vải dù để em làm ngụy trang, chiếc lược em đem theo khi đi lấy chồng, để mỗi khi chải đầu thì lại nhớ đến anh” - lúc sắp chia tay tôi nói với Hạnh.
Tết xong, tôi phải trở về đơn vị, khi nào có điều kiện tôi sẽ lên miền Tây tìm Dũng. Còn em khi nào lấy chồng, nhớ báo tin để anh về . Em cầm tay tôi nói khẽ : “Anh đi nhớ giữ sức khỏe, có điều kiện về thăm nhà, thăm em,còn em cứ ở thế này em không lấy chồng đâu”.
Vào một sáng tháng năm 50 mươi năm sau, những người lính của Binh tram 13 chúng tôi trở lại thăm chiến trường xưa. Nắng trải vàng như mật sắp tới ngày sinh nhật Bác.
Trời Hà Nội rợp bóng cờ, hoa.
Lòng người lâng lâng.
Xe chúng tôi theo Quốc Lộ 1A xuôi về phương nam, rồi ngược đường 7A lên biên giới. Đất nước thay đổi như có phép màu ngay cả cái thị trấn miền núi Con Cuông ngày xưa nhỏ xíu lơ thơ mấy nóc nhà lợp lá,nay cũng san sát nhà hàng, khách sạn.
Qua cửa khẩu sang đất bạn con đường năm xưa chúng tôi mò mẫm đi trong đêm ,gập ghềnh, nham nhở hố bom nay trải nhựa, thẳng tắp. Qua đỉnh Đam, rồi Đèo Đá, Đèo Đất, Nậm Tiền, Nậm Mật những cây cầu hiện đại vươn mình trong nắng. Lại chợt nhớ tới bài thơ của Quang Dũng ngày nào tôi đọc cho anh em nghe trên con đường này lúc hành quân vào chiến trường: " Đường lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm / Cồn mây heo hút súng ngửi trời ..."
Tới Bản Ban, chúng tôi rẽ vào một con đường nhỏ tới hang Na Long, đây là một hang đá khá rộng, ngày xưa Binh Trạm sử dụng làm kho hậu cần, địch phát hiện cho máy bay đánh phá suốt ngày đêm hàng hóa của ta vẫn an toàn. Cuối năm 1969 địch mở chiến dịch Cù Kiệt. Sợ bị địch bắt đi mấy trăm người dân Lào cả người già, trẻ nhỏ ,chạy vào đây tạm trú, địch phát hiện chúng phóng tên lửa, hang cháy mấy trăm người không một ai sống sót.
Hang vắng lặng, người ta dựng trước cửa hang một bức tượng người phụ nữ bế đứa con đầu và chân tay thõng xuống. Đứa bé chết trên tay mẹ. Chúng tôi mỗi người thắp cho họ một nén nhang cầu mong cho linh hồn người đã khuất được siêu thoát. Trời đã ngả bóng cả đoàn tìm vào DỐC CHUM nơi đóng quân của Binh Trạm bộ.
Hai pháo thủ của đường 7 Cánh đồng Chum sau trở thanh hai nhà văn: Phạm Ngọc Tiến và Châu La Việt
Không còn dấu vết nào của con đường ngày xưa mọi người phải quay lại lên xe đi tiếp .Ngồi cạnh tôi là Ngô Quốc Lập, bên ghế đối diên là nhà văn Châu La Việt - một người lính nguyên mẫu lúc nào cũng ồn ào, ăn sóng nói gió nhưng lại có đời sống nội tâm ngược lại, ấm áp tình cảm sâu lắng ,thủy chung. Cặp đôi này đã có thời gian khá dài, sống và cùng làm việc với nhau ở Ban chính trị. Là biên tập của tờ tin Đường phía trước - một tờ báo nội bộ của Binh trạm. Cả hai tưởng đã chết trong một trận khi bị B52 đánh vào nơi đóng quân .
Chuẩn bị tới đèo Phu Nốc Cốc, anh Việt ra hiệu cho xe đi chậm lại tôi thấy anh lục trong ba lô lôi ra một tập giấy cầm trên tay. Con đèo này ngày xưa từng là một trọng điểm ác liệt nhất tuyến đường, máy bay địch đánh phá suốt ngày đêm, thỉnh thoảng bọn thổ phỉ lại phục kích chớp nhoáng , đã bao lần chúng tôi mất ăn mất ngủ vì bọn này . Tới đỉnh đèo xe dừng hẳn cầm tập giấy trên tay, anh nhảy xuống, chúng tôi xuống theo ra sát mép vực, anh tung tập giấy xuống rồi gọi to:
- Các đồng chí ơi! Chúng tôi về thăm... Các đồng chí đây. Tôi gửi tặng các đồng chí bản thảo cuốn sách Binh trạm của tôi để tưởng nhớ tới các đồng chí, đồng đội đã hy sinh cho tuyến đường này. Tôi gửi cho rừng, cho núi cho mây, cho gió, cho đất nước Lào anh em, chúc cho hai dân tộc sống trong hòa bình, hạnh phúc”. Những tờ giấy tung lên, bay theo gió, dọc theo triền núi như những cảnh bướm trắng. Chúng tôi lặng người đi vì xúc động, ôm lấy nhau giữa đỉnh đèo lộng gió. 50 năm những người lính của Binh trạm 13 chúng tôi, những người sống, cả những người đã chết gặp lại nhau giữa chiến trường xưa.
Tôi đã đi nhiều nơi, qua nhiều đơn vị, tham gia nhiều chiến dịch, từ biên giới tây nam đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc ở biên giới phía Bắc, nhưng BT 13 và những con người ở đây là những kỷ niệm đẹp theo tôi đi suốt cuộc đời…
Bài 5: Cao hơn dãy núi Trường Sơn…
Bình luận