Người ta là hoa đất (Ba đoản khúc và vĩ thanh về “Có một miền quê yêu thương”, hồi ức của Trần Công Bổng, NXB Hội Nhà văn, 2023)
“Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc” (I. Ehrenburg).
LÀNG - ký ức lương thiện
Tạp chí Văn nghệ số 1 (3-1948) đăng truyện ngắn “Làng” của Kim Lân. Nhân dịp kỷ niệm 75 năm Báo Văn nghệ (1948-2023) ra số đầu tiên, một ấn phẩm văn chương đẹp ra mắt độc giả - “Tuyển tập truyện ngắn 75 gương mặt văn nghệ”. Thiên truyện cổ điển Làng vẫn “đứng chân” trong tuyển tập này, nó có một vị trí vững chắc trong lòng độc giả, được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông (SGK Ngữ văn 12) và các bậc học trên. Vì, xét đến cùng văn hóa Việt Nam mang tính cộng đồng cao, xuất phát từ đơn vị cơ bản “làng”.
Làng là một phạm trù văn hóa, một lưu dấu phong tục tập quán, một bệ phóng của mỗi người dân Việt Nam vốn được minh định là phát tích từ văn minh lúa nước và thuần nông (chiếm đa số cư dân lao động và sản xuất). Cho đến thập niên thứ ba của thế kỷ hai mươi mốt, dân số Việt Nam đã cán đích 100 triệu, Thế giới đạt tới mốc 8 tỷ người, thì nhìn đại thể, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp “toàn tòng”.
Văn chương Việt Nam đương đại đang hướng ra đô thị, thị dân, di dân hơn là hướng về khu vực “tam nông” (nông thôn - nông nghiệp - nông dân). Nói cách khác là tinh thần “cố hương” có phần giảm sút rõ rệt, tuy nhiên chưa đến mức triệt tiêu. Hiếm hoi dần những tác phẩm xuất sắc như các tiểu thuyết “Bão biển” của Chu Văn, “Đất làng” của Nguyễn Thị Ngọc Tú, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Kẻ ám sát cánh đồng” của Nguyễn Quang Thiều hay truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư. Vì thế, văn hóa Việt Nam, xét về căn cơ, cho đến nay vẫn là văn hóa làng xã, có tính cộng đồng cao, với cả hai mặt tích cực và hạn chế của nó. Nên dễ hiểu vì sao người Việt giàu ký ức, hoài niệm dĩ vãng, hay hồi cố về làng quê hơn về phố phường.
Tôi nghĩ, “Có một miền quê yêu thương” của tác giả Trần Công Bổng là một tác phẩm toàn tâm toàn ý viết về LÀNG, theo triết lý lão thực. Xuất phát điểm để tác giả viết tác phẩm có tính chất hồi ức (hay gọi là hồi ký, tự truyện cũng đúng), theo tôi, là tựa vững trên KÝ ỨC LƯƠNG THIỆN. Con người (cá thể) hay một cộng đồng (dân tộc) đều có ký ức, đó là lý do tồn tại, hay là cách thế tồn tại trong một thế giới đầy bể dâu. Đọc “Có một miền quê yêu thương”, độc giả sẽ “chạm” và “thấm” liên tục vào hai chữ KÝ ỨC.
Nói cách khác, dòng ký ức tuôn chảy thao thiết, mạnh mẽ từ trang đầu đến trang cuối tác phẩm. Điểm sáng rạng rỡ nhất của tác phẩm, tôi nghĩ, chính là trường đoạn “Quê tôi được Bác Hồ về thăm” (trang 132-143). Miền Bắc trước 1975 có bao nhiêu làng nhận được vinh dự to lớn, trở thành ký ức văn hóa vĩnh hằng như làng Vĩnh Tuy?! Những tấm ảnh lịch sử Bác Hồ về thăm LÀNG đã trở thành bảo vật của quê hương, bởi “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn ở bên Người một chút” (Tố Hữu – Sáng tháng Năm).
Hồi ức “Có một miền quê yêu thương” của Trần Công Bổng.
LÀNG - nhìn từ đại lượng văn hóa
Bất luận sự vật nào cũng có tiểu sử (lịch sử) với nội hàm quá khứ - hiện tại- tương lai. Thế giới tuân theo quy luật “vạn vật hấp dẫn” và “ vạn vật hữu linh”, vừa vô hình vừa hữu hình. Nghĩa là mọi sự vật đều có linh hồn từ con người đến cây cối, chim muông, đất đai, sông nước, gió mưa, ánh nắng mặt trời hay ánh sáng của vầng trăng đến muông thú; từ vật vô tri vô giác đến các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật.
Một LÀNG có tên Vĩnh Tuy (xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) gồm ba xóm Vĩnh Tiến, Vĩnh Phúc và Bắc Tháp được kể trong sách hẳn là không gian “địa linh nhân kiệt”. Nhưng cái gọi là “truyền thống” không tự dưng trên trời rơi xuống hay dưới đất mọc lên. Tất cả đều có nguyên nhân sâu xa về xã hội - tự nhiên - lịch sử - văn hóa từ thời đại này sang thời đại khác.
LÀNG mang vẻ đẹp nguyên thủy: “Làng tôi đó, miền ký ức tuổi thơ tôi, là nơi bình dị, yên ả như dòng sông quê hương ngày đêm âm thầm mang phù sa bồi đắp cho ruộng đồng, mùa màng tươi tốt, như dòng sông đã chắt mật phù sa, hòa mồ hôi của tổ tiên, ông bà, của cha mẹ, làm thành hạt lúa thảo thơm, củ khoai, củ sắn ngọt bùi...nuôi tôi lớn thành người. Hai tiếng quê hương tưởng chừng vô cùng giản đơn, nhưng để thấu hiểu hết lại phải cảm nhận bằng sự trải nghiệm và cả tâm hồn”.
Tiểu sử LÀNG không bó hẹp hay đơn giản khuôn theo lịch đại (thời gian) mà phải xét từ đồng đại (các nhân tố tác thành), hỗn dung trong một đơn vị kinh tế - xã hội - văn hóa - giáo dục - văn học nghệ thuật. Cách viết (như thế nào) mới quan trọng hơn đối tượng viết (về cái gì). Đọc tác phẩm của tác giả Trần Công Bổng, thì thấy “đại lượng văn hóa” của LÀNG là biến thiên và thặng dư, vì có tính chất tập hợp của nhiều tổng số. Ở đây là “thặng dư chữ”. Nếu kết cấu hợp lý (cô đúc) hơn thì “đại lượng” này sẽ tạo một “cú đấm nghệ thuật” hiệu quả cao hơn khi biết cách kiến tạo những “điểm nhấn” trong quá trình viết - là nói theo hướng lý tưởng hóa. Nhưng như cổ nhân răn: “Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ”.
LÀNG - người ta là hoa đất
Thế giới tự nhiên giàu có lên hay nghèo nàn đi, đẹp lên hay suy tàn đi, suy cho cùng là nhờ (vì, bởi) CON NGƯỜI - “Hai tiếng ấy vang lên biết bao tự hào!” (M. Gorki). Dân gian đúc kết thành chân lý, quy luật “Người ta là hoa đất” (tục ngữ), như là định luật trong Toán học vậy. Người của LÀNG dĩ nhiên là đông đảo những người nông dân: “Lao động vất vả, vì cuộc mưu sinh vẫn phải dầm mình giữa nắng nóng mùa hè. Và gió Lào quê tôi chưa bao giờ thôi khắc nghiệt, con người cũng chưa bao giờ thôi khổ”. Tôi thấy cách viết của tác giả đã không chạy theo lý tưởng hóa mà quên hiện thực. Quý vị nếu thường xem phim Việt hiện nay sẽ thấy một đời sống vương giả, phù hoa đa số hiện diện ở chốn thị thành, đôi khi là phồn hoa giả tạo.
Viết về người của LÀNG, tác giả thoạt tiên chạm bút vào cái gốc rễ, cái căn cơ, thiết thân với mình - những người cùng huyết thống cận kề, từ cao đến thấp theo thứ bậc mà mình gắn bó như một sự sắp đặt vừa ngẫu nhiên vừa tất nhiên của số phận: Từ “Người chắp cánh tuổi thơ tôi” (Ông, Bà nội), những trang viết, theo cảm nhận của tôi, hay nhất trong tập sách. Về sau này dù đi bốn phương trời, dù ăn mòn cơm thiên hạ, dù được học hành đến nơi đến chốn và có ít nhiều công thành danh toại thì cái gốc rễ như sự khởi thủy luôn luôn là từ ông bà, cha mẹ. Bởi họ đã sinh thành, dưỡng dục những “hậu sinh khả úy”, như chính tác giả là một “nhân chứng”.
Trong giáo dục đạo đức hiện nay, chúng ta đôi lúc viển vông và trừu tượng khi dạy trẻ thơ và cả người trưởng thành yêu những gì ngoài tầm nhìn, tầm nghĩ, nên đôi khi rơi vào huyễn tưởng và hoang đường. Tôi khi còn đi dạy đại học, đã làm trắc nghiệm về “THẦN TƯỢNG” với sinh viên của mình. Hầu như hiếm hoi có câu trả lời “THẦN TƯỢNG CỦA TÔI...” là những người ruột thịt máu mủ. Suy cho cùng người trẻ không có lỗi. Lỗi thuộc về người khác. Riêng tôi, càng xúc động khi đọc “thiên” “Người thợ được dân làng nhớ mãi” (về người cha của tác giả, làm nghề đóng cối xay lúa nên thường được gọi là “Phó cối”).
Cha là người lao động chân chính, vì lao động là vất vả nhưng vinh quang. Văn chương của ta hiện thời ít ca ngợi vẻ đẹp của lao động và người lao động, lại hay nghiêng về những “bi kịch trần gian” (để lấy nước mắt của độc giả và để PR, bán sách). Ca dao có câu: “Công cha như núi Thái sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Vậy nên một thiên khác đọc hấp dẫn Lòng Mẹ bao la như biển với hai câu thơ làm đề từ: “Cánh cò cõng nắng cõng mưa/ Mẹ tôi cõng cả bốn mùa gió sương”. Một nhà văn lớn thế giới đã viết: “Không có NGƯỜI MẸ, không có mặt trời, không có thi ca, không có cả người anh hùng”.
Tác giả bài báo nhỏ này mồ côi MẸ từ khi 3 tuổi (1954), không may mắn được lớn lên trong vòng tay mẹ hiền. Nên đọc thiên về MẸ quả thật không cầm được nước mắt, dù đã ngoại thất thập vẫn cảm thấy mình như một trẻ thơ trước mất mát lớn của cuộc đời.
Nhà thơ Bế Kiến Quốc có những câu thơ nằm lòng nhiều thế hệ sinh viên Văn khoa, Đại học Tổng hợp Hà Nội: “Sinh ở đâu mà ai cũng anh hùng?/ Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông” (Những dòng sông). Theo lời tác giả kể (thiên Dòng sông tuổi thơ) thì con sông chảy qua làng Vĩnh Tuy dẫu không “hùng vĩ” nhưng đó là “dòng sông thân thương”. Nơi đó sinh ra một NGƯỜI ANH HÙNG LLVTND - NGUYỄN ĐĂNG CHẾ. Đồng thời ông cũng là một thi sỹ, chủ nhân của 5 tập thơ. Từ bài viết Quê hương trong “Lục bát chiều”, tác giả đã làm bật lên ý tưởng “Con chữ soi bóng đời”, nếu vận vào trường hợp ANH HÙNG LLVTND - THI SỸ NGUYỄN ĐĂNG CHẾ, tôi nghĩ, rất sát hợp khi chạm vào được cái “thần thái” của đối tượng viết.
Con người của LÀNG trong “Có một miền quê yêu thương” tiếp tục hiện lên như những “thước phim” tài liệu - lịch sử - nghệ thuật sinh động và hấp dẫn: Chuyện người hai lần được gặp Bác Hồ, Người thầy tâm huyết với sự nghiệp “Trồng người”, Người cắm cờ ở đình làng năm ấy, Chuyện về người cựu binh già nhất làng,“Ông hoàng” chân đất thời chiến tranh. Như vậy, 9 thiên (9/33 bài) viết về “người làng”, theo tôi, là những “điểm độc sáng” của cuốn sách.
Vĩ Thanh - viết từ trải nghiệm sống và trải nghiệm văn hóa
Viết văn cần vốn sống dồi dào theo phương châm “Sống rồi mới viết”. Tất nhiên. Nhưng sức sống của tác phẩm lại tùy thuộc vào “phông nền” văn hóa của tác giả. Với “Có một miền quê yêu thương”, tôi nghĩ, chủ nhân của nó đã dày công kiến thiết được một cuốn sách có nhiều khả năng tiệm tiến văn hóa./.

Sáng ngày 31/10, tại Thư viện Quốc gia, doanh nghiệp Liên minh Kinh tế Quốc gia tổ chức Lễ ra mắt – trao tặng sách "Bắt...
Bình luận